Tìm kiếm

Thứ Năm, 29 tháng 4, 2021

CỰU BỘ TRƯỞNG CÔNG THƯƠNG VŨ HUY HOÀNG NHẬN ÁN 11 NĂM TÙ

 



Sau 1 tuần xét xử, chiều 29/4, TAND TP Hà Nội tuyên án đối với cựu Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng và 9 đồng phạm trong vụ án biến lô "đất vàng" 6.000m2 ở số 2-4-6 Hai Bà Trưng (quận 1, TPHCM) từ tài sản Nhà nước sang tài sản tư nhân. Trước giờ tuyên án, chủ tọa thông báo ông Hoàng có đơn xin xét xử vắng mặt vì lý do sức khỏe không tốt.


Ông Vũ Huy Hoàng bị TAND TP Hà Nội tuyên 11 năm tù về tội Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí. 


Cùng tội danh này, ông Phan Chí Dũng (cựu Vụ trưởng thuộc Bộ Công Thương) lĩnh 9 năm tù. Bị cáo Nguyễn Hữu Tín, cựu Phó Chủ tịch UBND TPHCM, bị tuyên phạt 6 năm 6 tháng tù. Tổng hợp với bản án trước, ông Tín phải chấp hành 13 năm 6 tháng tù về tội Vi phạm quy định về quản lý đất đai. 


Đồng phạm với ông Tín, bị cáo Đào Anh Kiệt (cựu Giám đốc Sở TN&MT TPHCM) lĩnh 5 năm tù; Lâm Nguyên Khôi (cựu Phó Giám đốc Sở KH&ĐT TPHCM) bị phạt 4 năm 6 tháng tù. 


Nhóm cựu cán bộ thuộc UBND TPHCM gồm Lê Văn Thanh lĩnh 4 năm tù; Lê Quang Minh bị phạt 3 năm 6 tháng tù; Nguyễn Thanh Chương và Trương Văn Út cùng 3 năm tù. Bị cáo Nguyễn Lan Châu lĩnh 30 tháng tù treo.


(*) Theo: VTC News

NHẬN DIỆN ỨNG CỬ VIÊN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI LƯƠNG THẾ HUY




Trong số 9 ứng cử viên đại biểu Quốc hội tự ứng cử có đủ số phiếu tín nhiệm cử tri để đưa vào danh sách ứng cử ĐBQH Khóa XV thì đặc biệt chú ý ở đây là nhân vật đồng tính luyến ái Lương Thế Huy.

Ngày 12/3/2021, Huy nộp hồ sơ tự ứng cử Đại biểu Quốc hội tại phường Kim Mã, quận Ba Đình, Hà Nội. Ngày 11/4/2021, Ủy Ban bầu cử Phường này lấy tín nhiệm của cử tri nơi cư trú đối với ứng cử viên Đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp. Huy đã đạt 100% tín nhiệm cử tri, hiện danh sách bầu cử Đại biểu Quốc hội nằm ở đơn vị bầu cử quận Hà Đông, huyện Thanh Trì và Thanh Oai, Hà Nội.

Nếu Lương Thế Huy thật sự là một công dân đủ tiêu chuẩn ứng cử viên đại biểu Quốc hội thì không cần bàn nữa. Bởi vì, Tổ quốc, Nhân dân rất cần những người trẻ, có học thức để phục vụ Tổ quốc, Nhân dân và cộng đồng xã hội. Quốc hội cũng rất cần tiếng nói của những người ngoài Đảng, đại diện cho nhiều tầng lớp xã hội để có kênh thông tin phản ánh đa chiều giúp cấp ủy, chính quyền địa phương, Trung ương đưa ra những quyết sách phù hợp với lòng dân. Tuy nhiên, Qua theo dõi, nhận thấy Lương Thế Huy là một thành phần hết sức nguy hiểm bởi mấy vấn đề sau: 

Thứ nhất, Huy là một luật sư, mặc dù không hành nghề luật sư nhưng thường xuyên liên kết với HTX Luật sư toàn thua chuyên bào chữa cho đám phản động như luật sư Hà Huy Sơn, Đặng Đình Mạnh, Ngô Tuấn, Lê Hòa... Đó là dấu hỏi lớn.

Thứ hai, Huy là một trong những thành viên của tổ chức NGO. Hiện là viện trưởng viện iSEE do USAID tạo lập. Xin nói thêm, USAID là một tổ chức xã hội dân sự hoạt động phi chính phủ do Kennedy thành lập năm 1961, mặc dù mang tiếng là tổ chức độc lập, nhưng không hề che đậy hoạt động dưới sự dẫn dắt của TT Mỹ, bộ ngoại giao và Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ nấp dưới vỏ bọc “hỗ trợ dân sự”, “trợ giúp phát triển” nhân quyền, bình đẳng giới các quốc gia trên thế giới. Hầu như tất cả các vụ biểu tình bạo loạn, lật đổ và các sắc màu cách mạng đường phố ở Châu Âu, Ai Cập, Châu Phi, Trung Đông và ngay cả Hồng Kông đều có bàn tay đen của tổ chức này. Nga đóng cửa USAID vì tình báo Nga từng phát hiện tổ chức này cung cấp tài chính cho một âm mưu hoạt động kích động biểu tình bạo loạn ở Nga.

Thứ ba, Huy cũng từng có nhiều hoạt động lợi dụng dân chủ nhân quyền để xuyên tạc tự do nhân quyền ở Việt Nam.  

Nếu như các nhân vật chống đối như Lê Dũng Vova, Ngô Tuấn, Nguyễn Đình Cống thì cộng đồng mạng xã hội quá hiểu, nhưng một nhân vật bí ẩn với cộng đồng mạng xã hội như Huy nếu không được sáng tỏ, chắc chắn sự nhầm lẫn của người dân sẽ không tránh khỏi. Có một điều, chiến tranh đã qua đi 46 năm nhưng giới diều hâu nước Mỹ vẫn chưa nuốt trôi nỗi nhục. Sau khi nếm mùi thất bại ô nhục trên chiến trường, ngày rút quân tháo chạy, cựu ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger đã kịp ném lại cho thế hệ hậu chiến ở Việt Nam lời tuyên chuyến ngạo mạn và đầy thách thức:

"Những gì mà mấy chục năm nay nước Mỹ không làm được ở trên đất nước này, thì con cháu của các ngài, thế hệ trẻ Việt Nam trong tương lai, nó sẽ giúp nước Mỹ thực hiện được giấc mơ của người Mỹ... Hai mươi năm sau chúng ta sẽ trở lại Việt Nam. Không phải với xe tăng, đại bác, chiến hạm hay pháo đài bay mà bằng xấp đô la.

Khi đó, cờ Mỹ sẽ bay không chỉ ở Sài Gòn mà còn hiên ngang giữa lòng Hà Nội. Những gì bom đạn không thể làm được thì sức mạnh của đồng đô la sẽ giải quyết. Người Việt Nam sẽ đón chúng ta như những vị ân nhân"

Và 46 năm sau ngày Mỹ cút, ngụy nhào nước Mỹ đã làm được gì? Hãy nhớ những gì cựu ngoại trưởng Mỹ nói để hiểu được Lương Thế Huy là ai.

Nghe nói Huy rất giàu có, ngoại hình nét thư sinh, dễ gần, là người nhiều tiền sẵn sàng "quăng ném" bất cứ ở đâu cho hoạt động xã hội. Tuy nhiên, trước khi bỏ phiếu cho Huy, người Hà Nội nên đọc những dòng này rồi xem lại bức tranh Hà Nội năm 1972 và nhìn về Trường Sơn bạt ngàn những ngôi mộ liệt sĩ đang nằm ở đó. Nên hành động đúng khi chúng ta chưa muộn để nhận ra Lương Thế Huy là ai./.

CẦN ĐỔI MỚI MẠNH MẼ TƯ DUY, TẠO ĐỘT PHÁ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI




🇻🇳 Ngày 28/4, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có buổi làm việc với lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) về tình hình triển khai nhiệm vụ được giao và một số nhiệm vụ trọng tâm để tạo đột phá trong phát triển kinh tế đất nước thời gian tới.

Chia sẻ với các khó khăn của Bộ KH&ĐT, Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh tinh thần giải quyết khó khăn cho địa phương, người dân và doanh nghiệp là không nói không, không nói khó và không nói có mà không làm (3 không).

Bộ KH&ĐT phải đoàn kết, thống nhất cao với tinh thần tự lực, tự cường, đi lên từ bàn tay, khối óc của mình, không trông chờ, không ỷ lại, né tránh; biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành có thể, biến cái không quan trọng trở thành quan trọng mới là quan trọng.

Là cơ quan tham mưu chiến lược, Bộ KH&ĐT cần quán triệt tư tưởng chỉ đạo lấy nguồn lực bên trong là cơ bản, là chiến lược lâu dài, mang tính quyết định. Thủ tướng cho biết, một trong những nguồn lực bên trong rất quan trọng là giá trị con người Việt Nam, “cơ chế, chính sách, đường lối, tổ chức, vận hành tốt hay xấu đều do yếu tố con người quyết định”.

Nguồn TTCP

Thứ Tư, 28 tháng 4, 2021

PHÁT HUY QUYỀN VÀ TRÁCH NHIỆM CỬ TRI TRONG BẦU CỬ THEO LỜI CĂN DẶN CỦA BÁC HỒ (P2-HẾT)




♦️ Phát huy quyền và trách nhiệm cử tri theo lời Bác

Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 được tổ chức trong bối cảnh công cuộc đổi mới ở nước ta sau 35 năm đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên mọi lĩnh vực đời sống, xã hội, nhưng cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là tác động, ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19. Đây là sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, diễn ra sau thành công của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; là nơi để cử tri cả nước phát huy quyền làm chủ của công dân, lựa chọn bầu ra những người tiêu biểu, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của mình trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ mới, góp phần tích cực vào việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

Theo Nghị quyết số 133/2020/QH14 ngày 17/11/2020 của Quốc hội khóa XIV, ngày 23 tháng 5 tới đây là ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026. Để cuộc bầu cử thành công tốt đẹp, ngoài công tác tổ chức của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương thì việc tham gia thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm bầu cử của công dân là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng.

Thực tế hiện nay, quy trình hiệp thương giới thiệu người ứng cử ngày càng được tổ chức chặt chẽ hơn. Các đơn vị, địa phương, các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức xã hội đã đề cử các ứng cử viên đảm bảo các điều kiện để tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Việc lựa chọn các đại biểu chính thức trong số các ứng cử viên sẽ trở nên khó khăn hơn vì hầu hết họ đều có trình độ, năng lực và uy tín xã hội cao. Việc này đòi hỏi cử tri phải hết sức quan tâm theo dõi trên những phương tiện thông tin đại chúng, tích cực tìm hiểu thông tin về ứng cử viên trước khi đưa ra quyết định bầu chọn. Trong nhiều cuộc bầu cử trước đây, chính nhờ vào các phiên tọa đàm của nhân dân từ cơ sở đã không chỉ đem lại kết quả thành công mà còn nâng cao ý thức của người dân khi tham gia thực hiện quyền bầu cử.

Ghi nhớ lời căn dặn của Bác, mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân với tư cách là một cử tri cần nhận thức rõ cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp là một trong những quyền chính trị cơ bản của công dân, là phương thức thể hiện ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung và thành lập cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương và địa phương nói riêng. Đây là dịp để người dân thể hiện quyền làm chủ của mình thông qua lá phiếu bầu, trực tiếp lựa chọn những người có đủ đức, đủ tài, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân bầu vào cơ quan quyền lực nhà nước các cấp, thiết thực góp phần xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.

Phát huy trách nhiệm công dân, thực hiện tốt các quy định trong việc ứng cử, đề cử, giới thiệu người ứng cử và bỏ phiếu theo Luật Bầu cử. Theo đó, mỗi cử tri cần hiểu rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và nhiệm kỳ của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; các quy định về tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Tích cực tham gia giới thiệu và nhận xét đối với người ứng cử trong hội nghị cử tri. Nghiên cứu nắm vững quy trình, cách thức ứng cử, đề cử, bầu cử, các nguyên tắc bầu cử, từ đó, có sự xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng, lựa chọn những ứng cử viên thật sự tiêu biểu, có kiến thức, năng lực phản ánh được ý chí và nguyện vọng chính đáng của nhân dân với cơ quan dân cử. Kiên quyết “không giới thiệu và đưa vào danh sách ứng cử người có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực”(7).

Cử tri cần cố gắng khắc phục khó khăn, sắp xếp hợp lý công việc của cơ quan, gia đình, tự mình đi bầu cử, tự viết phiếu bầu và bỏ phiếu, không được nhờ người khác bầu thay khi mình có đủ điều kiện đi bầu cử. Trường hợp cần thiết viết hộ người khác phải tuyệt đối giữ bí mật phiếu bầu của cử tri. Cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì được nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu. Tuân thủ theo nội quy phòng bỏ phiếu, ghi nhớ hướng dẫn của Tổ bầu cử, tránh sai sót khi bầu. Khắc phục các hiện tượng qua loa, đại khái, bầu cho qua chuyện, không xem xét kỹ lưỡng trước khi bầu.

Ngày bầu cử càng đến gần, nhiều tổ chức phản động lưu vong và một số cá nhân, hội nhóm chống đối trong nước đang tiến hành mạnh mẽ các hoạt động xuyên tạc bản chất tốt đẹp của Đảng, Nhà nước ta. Chúng kích động, cổ súy các hành vi trái luật liên quan bầu cử, lôi kéo số chống đối tự ứng cử tràn lan, xuyên tạc các quy định về bầu cử, mua chuộc cử tri, gây mất an ninh trật tự, phá hoại cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp sắp tới. Vì vậy, cử tri cần hết sức tỉnh táo, chủ động nhận diện và đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn thâm độc, nguy hiểm của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, góp phần tổ chức thành công cuộc bầu cử.

Các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị lực lượng vũ trang và chính quyền địa phương tạo điều kiện cho cử tri ở cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình tiếp xúc với người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, làm cơ sở cho cử tri thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ của mình, xem xét, cân nhắc, lựa chọn những người thật sự xứng đáng vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Điều quan trọng là thu hút người dân quan tâm một cách thực sự đến hoạt động của Quốc hội, của Hội đồng nhân dân các cấp, đến việc lựa chọn người đại diện cho mình, cân nhắc kỹ lưỡng các ứng cử viên.

Hiện cả nước đang tích cực chuẩn bị bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, ý nghĩa của lời căn dặn của Bác còn nguyên vẹn và vẫn đẫm tính thời sự. Việc bầu ra cơ quan quyền lực Nhà nước mới sẽ góp phần quan trọng vào việc cụ thể hóa những quyết sách xây dựng đất nước theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước ta bước vào một thời kỳ mới. Mỗi lá phiếu của cử tri đều mang sứ mệnh cao cả là “viên gạch hồng” góp phần xây dựng đất nước. Học tập và làm theo Bác, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân phải thể hiện tích cực quyền và nghĩa vụ công dân của mình trong bầu cử. Có như vậy, mới góp phần làm ngày bầu cử thực sự là “một ngày vui sướng của đồng bào ta”, thực sự là “một ngày hội non sông”!

__________

Tài liệu tham khảo:

7.  https://thuvienphapluat.vn: Hướng dẫn số 36-HD/BTCTW, ngày 20/1/2021 của Ban Tổ chức Trung ương về công tác nhân sự đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026.  


 🇷🇺 Tổng thống Liên bang Nga Putin là nguyên thủ quốc gia đầu tiên gửi điện chúc mừng Tân Chủ tịch nước và Tân Thủ tướng Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong điện đàm Tổng thống Putin luôn gọi những người đồng cấp của Việt Nam là đồng chí...🇻🇳🇷🇺💐💐



NGÀY NÀY 46 NĂM TRƯỚC





Ngày 28-4-1975: Tổng công kích đợt  2 Chiến dịch Hồ Chí Minh phá vỡ các khu phòng thủ, áp sát nội đô Sài Gòn

Hướng đông nam, Sư đoàn 341 (Quân đoàn 4) phát triển vào Hố Nai, bị địch ngăn chặn quyết liệt phải dừng lại tổ chức đột phá. Sư đoàn 6, do không đánh trúng mục tiêu, để địch co cụm về Long Lạc-Hố Nai. Sư đoàn 7 cùng Lữ đoàn 52 tiến theo đội hình Sư đoàn 6, bố trí ở nam quốc lộ 1 chuẩn bị làm lực lượng thọc sâu của Quân đoàn.

Hướng bắc, 17 giờ ngày 28-4, được sự chi viện của pháo cối, một bộ phận Trung đoàn 27 Sư đoàn 320B tiến công địch ở khu vực dốc Bà Nghĩa. Sau 3 giờ chiến đấu,  ta hoàn toàn làm chủ trận địa, khống chế đoạn đường từ dốc Bà Nghĩa về Bình Cơ. Sau đó, đơn vị tiếp tục luồn về Lái Thiêu. Ðến 28-4, Sư đoàn 320B cơ động về đứng chân tại bắc Bình Chuẩn 7 km, chưa vào đến tuyến trung gian như đã quy định. Cùng thời gian này, lực lượng vũ trang Thủ Dầu Một phối hợp giải phóng tây nam Bến Cát, tây nam Tân Uyên. Trong lúc đó, Sư đoàn 312 bao vây Phú Lợi, chốt đường 13, chặn Sư đoàn 5 ngụy.

Ngày 27 và 28-4, Trung đoàn 113 đặc công cùng với một tiểu đoàn của Trung đoàn Gia Ðịnh chiếm cầu Bình Phước, làm chủ xa lộ Ðại Hàn đoạn từ cầu Bình Phước đến Quán Tre; Trung đoàn 116 chiếm cầu xa lộ Biên Hòa. Ngày 28, Ðại đội 40 (Ðoàn 116) đánh chiếm cầu Bến Gỗ (Cát Lái). Ðoàn 10 đặc công tập kích đồn Phước Khánh, Nhơn Trạch, tổ chức một bộ phận vượt sông đánh vào cảng hải quân nhưng không thành công.

Hướng tây và tây nam, chiều 28-4, pháo binh chiến dịch ở Hiếu Liêm bắn phá làm tê liệt sân bay Biên Hòa, Sở chỉ huy Quân đoàn 3 ngụy phải chuyển về Gò Vấp. Ðến cuối ngày 28-4, Sư đoàn 9 bộ binh và một số đơn vị binh khí kỹ thuật đã vượt sông Vàm Cỏ Ðông vào vị trí tập kết tại Bầu Cong, Mỹ Thạnh và Ðức Hòa. Các trung đoàn 24, 88 mở rộng vị trí đứng chân ở hướng bắc Cần Giuộc, chuẩn bị tiến vào nam Sài Gòn.

Hướng tây bắc, do Quân đoàn 3 đảm nhiệm, trong hai ngày 27 và 28-4, một bộ phận của Sư đoàn 316 tiến công cắt quốc lộ 22 đoạn Bỗu Nâu-Trà Võ, chốt tại đó và bao vây Trà Võ. Trung đoàn 174 (Sư đoàn 316) cắt quốc lộ 1 đoạn Phước Mỹ-Trảng Bàng, diệt các chốt địch ở Trung Hưng, Suối Cao, Bố Heo, chặn Sư đoàn 25 ngụy, chế áp các trận địa pháo, bức hàng Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 50 ngụy và cùng LLVT Tây Ninh bao vây thị xã, giải phóng nhiều vùng nông thôn. Ðêm 28-4, Thường vụ Ðảng ủy Quân đoàn 3 lệnh cho Sư đoàn 320 và Sư đoàn 10 hành quân chiếm lĩnh trận địa đúng thời gian kế hoạch hiệp đồng chung, đồng thời, lệnh cho Sư đoàn 316 vây chặt rồi tiến công đánh chiếm chi khu Trảng Bàng.

Từ ngày 27 đến 29-4, bộ đội đặc công và hải quân đánh chiếm các đảo Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa và các đảo khác do quân ngụy chiếm giữ.

16 giờ 17 phút ngày 28-4, Phi đội Quyết Thắng gồm năm máy bay A37 vừa thu được của địch do phi công Nguyễn Văn Lục chỉ huy, phi công Nguyễn Thành Trung dẫn đường cất cánh từ sân bay Thành Sơn (Phan Rang), ném bom chính xác vào sân bay Tân Sơn Nhất. Lực lượng đặc công bắn hơn 400 quả ÐKB vào sân bay Tân Sơn Nhất, làm tê liệt sân bay, và gây hoang mang tuyệt vọng cho địch. Trực thăng Mỹ phải đỗ trực tiếp xuống sân thượng tòa đại sứ Mỹ để chở người di tản.

Ðến chiều  28-4, các lực lượng ta đã phá vỡ các khu vực phòng thủ vòng ngoài của địch, cắt đứt đường số 4, tăng cường vây ép Sài Gòn trên các hướng, bao vây ngăn chặn, không cho các sư đoàn chủ lực địch co cụm về vùng ven và nội thành.

Qua hai ngày tiến công, trên tất cả các hướng, ta đã thực hiện tốt việc ngăn chặn chủ lực địch ở vòng ngoài, triệt để bao vây, cô lập Sài Gòn. Ðịch đối phó quyết liệt song trước sức tiến công của ta, quân địch hoang mang cao độ, tướng tá ngụy bắt đầu tranh nhau di tản.

Phía địch, chiều 28-4, trước sức tiến công của bộ binh và sự chi viện hiệu quả tích cực của pháo binh, địch phải di tản máy bay ở sân bay Biên Hòa về sân bay Tân Sơn Nhất và Sở chỉ huy Quân đoàn 3 ngụy phải bỏ Biên Hòa tháo chạy về Gò Vấp. Trong lúc đó, tại Sài Gòn, Trần Văn Hương từ chức, trao ghế Tổng thống ngụy quyền cho Dương Văn Minh. Tổng thống mới kêu gọi quân ngụy "không buông vũ khí", "bảo vệ lãnh thổ".

Ðêm 28-4, Phòng quân báo Miền, theo dõi sát thông tin của địch thông báo về Bộ Chỉ huy chiến dịch hai tin quan trọng: trong đêm Bộ tổng tham mưu ngụy đã không còn giữ được liên lạc với Quân đoàn 3 và các sư đoàn quân ngụy nữa. Cũng trong đêm 28-4, Dương Văn Minh chỉ thị cho trung tâm thông tin Quán Tre cố gắng duy trì hoạt động đến 9 giờ 30 phút sáng 30-4.

Ngay trong đêm 28-4, sau khi thông báo tình hình chung toàn mặt trận, Bộ Chỉ huy chiến dịch lệnh cho các hướng tiếp tục tiến công để đến sáng 29-4, toàn mặt trận tổng tiến công vào Sài Gòn. Bộ Chỉ huy chiến dịch cũng chỉ thị cho các quân khu 8 và 9 phối hợp tiến công và nổi dậy giải phóng đồng bằng Nam Bộ.

Theo: Báo Nhân dân Điện tử

Thứ Hai, 26 tháng 4, 2021

ĐÃ ĐƯA GẦN HẾT NGƯỜI VIỆT NAM Ở ẤN ĐỘ VỀ NƯỚC




Theo công bố ngày 25-4, Ấn Độ có thêm 349.691 ca nhiễm mới và 2.767 ca tử vong trong 24 giờ qua. New Delhi quyết định gia hạn thêm 1 tuần lệnh phong tỏa tại thành phố này nhằm kiểm soát dịch bệnh. 

 *****

Trong bối cảnh dịch COVID-19 tăng mạnh tại Ấn Độ, Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ cho biết đã đưa gần hết người Việt về nước và tiếp tục hỗ trợ khoảng 100 người còn ở lại.

Trả lời VTV ngày 25-4, Tham tán Đỗ Thanh Hải của Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ cho biết cộng đồng người Việt tại Ấn Độ có hơn 1.000 người sống rải rác ở nhiều bang và thành phố.

Người Việt tại đây đối mặt với nhiều khó khăn, nguy cơ mắc bệnh tăng rất cao, nếu mắc bệnh thì nguy cơ bệnh nặng hoặc tử vong là không thể tránh khỏi, do hệ thống y tế của Ấn Độ bị quá tải. Điều kiện sống, đi lại, mua các nhu yếu phẩm trong dịch cũng khó khăn, bên cạnh những sức ép về tâm lý mà người Việt phải đối mặt.

Để đảm bảo an toàn cho bà con, Đại sứ quán đã tổ chức 6 chuyến bay đưa gần 1.000 người Việt về nước và hiện chỉ còn khoảng 100 người ở lại.

Đại sứ cũng duy trì liên hệ với bà con và sẵn sàng tư vấn, can thiệp nếu cần, hỗ trợ về mặt giấy tờ, cung cấp nhu yếu phẩm, thuốc men hoặc can thiệp để công dân Việt Nam được chữa trị. 

*****

Việt Nam ơi Việt Nam!! ❤️❤️❤️



ĐÃ ĐƯA GẦN HẾT NGƯỜI VIỆT Ở ẤN ĐỘ VỀ NƯỚC - HÀNH ĐỘNG NHANH, DỨT KHOÁT

 



Trong bối cảnh dịch COVID-19 tăng mạnh tại Ấn Độ, Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ cho biết đã đưa gần hết người Việt về nước và tiếp tục hỗ trợ khoảng 100 người còn ở lại.


Trả lời VTV ngày 25-4, Tham tán Đỗ Thanh Hải của Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ cho biết cộng đồng người Việt tại Ấn Độ có hơn 1.000 người sống rải rác ở nhiều bang và thành phố.


Người Việt tại đây đối mặt với nhiều khó khăn, nguy cơ mắc bệnh tăng rất cao, nếu mắc bệnh thì nguy cơ bệnh nặng hoặc tử vong là không thể tránh khỏi, do hệ thống y tế của Ấn Độ bị quá tải. Điều kiện sống, đi lại, mua các nhu yếu phẩm trong dịch cũng khó khăn, bên cạnh những sức ép về tâm lý mà người Việt phải đối mặt.


Để đảm bảo an toàn cho bà con, Đại sứ quán đã tổ chức 6 chuyến bay đưa gần 1.000 người Việt về nước và hiện chỉ còn khoảng 100 người ở lại.


Đại sứ cũng duy trì liên hệ với bà con và sẵn sàng tư vấn, can thiệp nếu cần, hỗ trợ về mặt giấy tờ, cung cấp nhu yếu phẩm, thuốc men hoặc can thiệp để công dân Việt Nam được chữa trị. 

Chủ Nhật, 25 tháng 4, 2021

KHÔNG CHỦ QUAN, MẤT CẢNH GIÁC TRONG CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG DỊCH COVID-19

 



     Trong những ngày vừa qua, Ấn Độ là quốc gia đang chịu thiệt hại nặng nề do sự bùng phát của đại dịch Covid-19.


     Tính đến ngày 25-4, Ấn Độ có thêm 349.313 ca nhiễm mới và số người tử vong đã tăng thêm 2.761 người. Con số trên đánh dấu ngày thứ 8 liên tiếp Ấn Độ ghi nhận số ca mắc mới trên mức 200.000, nâng tổng số ca nhiễm Covid-19 ở nước này lên tới 16.951.769 trường hợp. Tổng số người chết do dịch Covid-19 tại Ấn Độ đã lên tới 192.310 trường hợp.


     Theo nhận định của các chuyên gia thì nguyên nhân dịch bùng phát nhanh ở đất nước này một phần do ý thức tuân thủ quy định phòng dịch của người dân không cao. Lễ hội Kumbh Mela bên bờ sông Hằng và một số điểm tụ tập đông người nhưng không đeo khẩu trang cũng là nguyên nhân khiến số người mắc Covid-19 tăng nhanh và tử vong đất nước này. Hơn nữa, các biến thể mới của chủng virus SARS-CoV-2 cũng là một tác nhân gây nên sự bùng phát dịch bệnh.


     Sự bùng phát dịch Covid-19 ở Ấn Độ và một số nước trên thế giới là bài học sâu sắc đối với công tác phòng, chống dịch ở nước ta. Mặc dù hiện nay dịch Covid-19 ở Việt Nam đang được kiểm soát rất tốt, tuy nhiên không vì thế mà các cấp chính quyền và người dân có thể chủ quan, lơ là, mất cảnh giác trước sự xâm nhập và bùng phát của dịch Covid-19.


     Được biết, Thủ tướng Chính phủ đã có Công điện số 541/CĐ-TTg ngày 23-4-2021 về tăng cường thực hiện phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Công điện nêu rõ: Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục tăng cường cảnh giác với nguy cơ dịch bệnh, đề cao trách nhiệm người đứng đầu, thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch đã đề ra với phương châm “phòng ngừa tích cực, phát hiện sớm, cách ly nhanh, điều trị hiệu quả, xử lý dứt điểm, nhanh chóng ổn định tình hình”.


     Sự vào cuộc kịp thời và quyết liệt của các cấp chính quyền, lực lượng chức năng và ý thức phòng, chống dịch cao của các tầng lớp nhân dân sẽ là nhân tố quyết định để chúng ta ngăn chăn, đẩy lùi sự lây lan, bùng phát của đại dịch Covid-19. Đặc biệt trước khi bước vào kỳ nghỉ lễ dài ngày sắp tới, mỗi gia đình, mỗi người dân khi tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí, đi tham quan, du lịch cần phải chủ động thực hiện nghiêm quy định 5K (Khẩu trang - Khử khuẩn - Khoảng cách - Không tập trung - Khai báo y tế) của Bộ Y tế để bảo đảm an toàn sức khỏe cho bản thân và cộng đồng./.

Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

VIỆT NAM ỦNG HỘ CAMPUCHIA ỨNG PHÓ DỊCH COVID-19

 



    Ngày 23-4, tại Hà Nội, đồng chí Nguyễn Huy Tăng, Phó trưởng ban Thường trực Ban Đối ngoại Trung ương đã thay mặt Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trao tặng Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Vương quốc Campuchia tại Việt Nam Chay Navuth số tiền 300.000USD ủng hộ nhân dân Campuchia phòng, chống dịch (PCD) Covid-19.


     Phát biểu tại buổi lễ, đồng chí Nguyễn Huy Tăng nhấn mạnh, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn quan tâm và theo dõi sát sao diễn biến tình hình dịch Covid-19 và hết sức chia sẻ về những khó khăn mà Campuchia đang phải đối mặt do đại dịch gây ra; đánh giá cao nỗ lực của Campuchia trong công tác PCD; tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo quyết liệt của Chủ tịch Đảng Nhân dân Campuchia (CPP), Thủ tướng Chính phủ Campuchia Hun Sen cùng với sự ủng hộ, đoàn kết của toàn dân Campuchia và sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, Campuchia nhất định sẽ ngăn chặn và kiểm soát được tình hình lây lan của dịch bệnh trong thời gian sớm nhất.


     Đại sứ Chay Navuth bày tỏ cảm ơn sâu sắc Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã luôn quan tâm đến tình hình dịch Covid-19 ở Campuchia và đã ủng hộ số tiền trên để giúp Campuchia ứng phó với đại dịch Covid-19, thể hiện tình cảm đặc biệt, đồng cam cộng khổ, tương thân tương ái và “gian nan mới biết bạn hiền” giữa hai Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Campuchia và Việt Nam; đồng thời nhấn mạnh sự giúp đỡ kịp thời của Việt Nam lần này là nguồn động viên rất quan trọng giúp Campuchia có thêm nguồn lực để khống chế dịch bệnh trong cộng đồng hiện nay./.

Âm mưu tấn công thể chế chính trị Việt Nam của RFA

 



Thời gian vừa qua, các thế lực thù địch, đối lập với thể chế chính trị của Việt Nam đã thực hiện âm mưu vô cùng nguy hiểm là muốn lật đổ chế độ của Việt Nam, thành lập đa nguyên, đa đảng. Tiêu biểu như mới đây, RFA đã đăng tải một bài viết có tiêu đề “Củng cố “Đảng toàn trị” có thúc đẩy cải cách?” nhằm đưa ra nhiều luận điệu phiến diện, lệch lạc xuyên tạc về Việt Nam.


Khoan nói về âm mưu khi RFA khi đăng tải bài viết này, chỉ nói về cách sử dụng từ ngữ như “Đảng toàn trị”, “nhà nước độc tài”… đã dễ dàng nhận thấy sự thiếu thiện chí, thiếu khách quan với Việt Nam. Về nội dung, dĩ nhiên, vẫn như mọi lần, RFA vẫn đưa ra những thông tin mang tính mơ hồ, thật giả lẫn lộn, đưa tin lập lờ.


Trong bài, nhiều luận điệu sai trái được gieo rắc gồm: “nhà nước độc tài ngăn cấm các đảng phái đối lập, hạn chế sự phản đối của cá nhân đối với chủ trương, chính sách của nhà nước”. Thậm chí, ngay cả công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng khi được lọc qua lăng kính của RFA cũng bị biến tướng trở thành “công cụ củng cố đảng toàn trị”. Đồng thời, RFA cũng hù dọa người dân rằng việc đảng lãnh đạo sẽ khiến cho “tiến trình dân chủ và phát triển kinh tế đối mặt với nguy cơ bất ổn”, “mối quan hệ giữa đảng và chính phủ đang là vấn đề thách thức trong chuyển đổi kinh tế và dân chủ”.


Trước hết, nói về vấn đề cải cách và phát triển kinh tế, có thể thấy từ năm 1986, khi Đảng ta chính thức thực hiện đổi mới, tình hình kinh tế, xã hội của Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế cũng được nâng cao. Điều đó cho thấy việc tồn tại một Đảng duy nhất đối với Việt Nam không phải là “thách thức”, “kéo lùi” cải cách như luận điệu được RFA rêu rao.


Luận điệu cho rằng “Đảng toàn trị” sẽ không có tự do, dân chủ, nhân quyền chỉ là luận điệu lừa lọc dối trá một cách trắng trợn. Chỉ cần nhìn vào sự phát triển của hệ thống báo chí, internet, mạng xã hội… có thể dễ dàng thấy được đời sống tự do, dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam sôi nổi, đầy màu sáng chứ không u ám như những nhận định, đánh giá được các đối tượng xấu cố tình thêu dệt, tô vẽ.


Cuối cùng, về luận điệu “mối quan hệ giữa Đảng và Chính phủ đang là vấn đề thách thức trong chuyển đổi kinh tế và dân chủ”. Đây tiếp tục là một nhận định thâm độc của các tổ chức chống phá Việt Nam. Mục đích của những kẻ này là “chia phe”, “chia nhóm”, phân hóa, chia tách quyền lực trong việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước tại Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn nhận vào sự phát triển của Việt Nam, chúng ta sẽ thấy Đảng lãnh đạo không hề ngăn cản Chính phủ thực hiện nhiệm vụ của mình mà còn góp phần thúc đẩy Chính phủ hoạt động một cách hiệu lực, hiệu quả hơn. Đồng thời, chính sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố góp phần tạo ra sự thắng lợi trong công cuộc đổi mới, cải cách đất nước, đưa đất nước tiến lên nhanh, mạnh, vững chắc.


Vậy nên, không phải ngẫu nhiên mà Nhân dân đã nhận định rằng, “RFA tiếng Việt đích thị là một cơ quan truyền thông được lập ra chỉ để giúp ai đó trút mối thâm thù với Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, qua đó tìm mọi cách làm mất uy tín của Việt Nam; cố gắng truyền bá luận điệu, giá trị đi ngược lại định hướng phát triển của Việt Nam; cổ vũ các phát ngôn và hành vi chống đối, kích động hành vi vi phạm pháp luật”.


NHỮNG CHIẾN BINH “MŨ NỒI XANH”






Rạng sáng 24/4, máy bay vận tải C-17 của Không quân Hoàng gia Australia hạ cánh xuống sân bay Nội Bài, chở theo 38 cán bộ, chiến sĩ của Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam trở về từ Nam Sudan.

Cánh cửa của chiếc C-17 hé mở, đoàn quân "mũ nồi xanh" trở lại quê hương sau 17 tháng công tác tại châu Phi. Họ là thành viên của Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 2 phục vụ tại Phái bộ gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc ở Nam Sudan.

Khi những người lính lên đường vào tháng 11 năm 2019, họ không tưởng tượng được dịch Covid-19 sẽ bùng phát khắp thế giới, khiến thời gian công tác của họ tại Nam Sudan kéo dài hơn dự kiến.

Thiếu tướng Hoàng Kim Phụng, Cục trưởng Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam, cho biết ông rất muốn nhưng không thể đến bắt tay, ôm những người lính vì yêu cầu phòng dịch Covid-19. Lãnh đạo cục cho biết việc khen thưởng, động viên cán bộ, chiến sĩ sẽ được thực hiện sau khi họ hết thời hạn cách ly.

Kết thúc lễ đón, các chiến sĩ mũ nồi xanh được đưa về nhà ga quốc tế Nội Bài để làm các thủ tục nhập cảnh. Đội xe của Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội đã chờ sẵn để đưa các chiến sĩ về nơi cách ly tập trung. Những người lính sẽ cách ly tập trung 14 ngày và tự cách ly tại nhà thêm 2 tuần.

Thứ Sáu, 23 tháng 4, 2021

TIỂU BAN TỔ CHỨC PHỤC VỤ ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG ĐÓNG GÓP QUAN TRỌNG VÀO THÀNH CÔNG ĐẠI HỘI






     Chiều 22-4, tại Hà Nội, Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội XIII của Đảng tổ chức Hội nghị tổng kết công tác phục vụ Đại hội XIII của Đảng. Dự hội nghị có các đồng chí: Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư; Trần Quốc Vượng, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội XIII của Đảng; Nguyễn Văn Nên, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh; Lê Minh Hưng, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng.

     Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng diễn ra từ ngày 25-1 đến ngày 1-2-2021 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia đã thành công rất tốt đẹp. Các đại biểu dự hội nghị thống nhất, đánh giá cao các nội dung trong Báo cáo Tổng kết công tác tổ chức phục vụ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng trên các mặt: Chỉ đạo, điều hành; xây dựng chương trình điều hành và phối hợp chuẩn bị nội dung; công tác nhà khách-lễ tân, bố trí phương tiện phục vụ đại hội; công tác tài chính-tài sản; thông tin tuyên truyền, đối ngoại; bảo đảm an ninh, an toàn đại hội; y tế, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe đại biểu...

     Nhiều ý kiến đánh giá công tác chuẩn bị tổ chức phục vụ Đại hội XIII của Đảng có 3 điểm khác biệt lớn: Ảnh hưởng của tình hình dịch Covid-19; yêu cầu của công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới; việc đại biểu ăn, ở tập trung tại khách sạn, đã đặt ra yêu cầu cao hơn, khối lượng công việc nhiều hơn. Tuy nhiên, kế thừa kinh nghiệm tổ chức nhiều đại hội Đảng trước đây, nhất là kinh nghiệm tổ chức Đại hội XII, đồng thời lực lượng phục vụ trực tiếp đại hội có tinh thần trách nhiệm cao, tận tụy, chu đáo, chuyên nghiệp, nhiều đồng chí đã có kinh nghiệm phục vụ công tác đại hội nhiều năm... đã góp phần làm nên thành công tốt đẹp của Đại hội XIII.

     Phát biểu kết luận hội nghị, đồng chí Võ Văn Thưởng khẳng định: Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội XIII của Đảng đã hoàn thành tốt tất cả các nội dung thuộc thẩm quyền, trách nhiệm... Thay mặt Bộ Chính trị, đồng chí Võ Văn Thưởng trân trọng cảm ơn sự đóng góp của đồng chí Trần Quốc Vượng vào sự thành công của đại hội; biểu dương các đồng chí trong Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội, các cơ quan, đơn vị cùng toàn thể cán bộ, đảng viên, nhân viên, chiến sĩ đã trực tiếp và gián tiếp tham gia phục vụ Đại hội XIII của Đảng. Những thành công, kinh nghiệm rút ra qua tổ chức phục vụ Đại hội XIII vừa qua sẽ là bài học giá trị ý nghĩa cho việc tổ chức đại hội và các hoạt động lớn của Đảng, của đất nước trong thời gian tới. 

     Tại hội nghị, ban tổ chức đã trao quà lưu niệm tặng các đơn vị tham gia công tác phục vụ Đại hội XIII của Đảng./.

CHẨN BỆNH, KÊ ĐƠN CHO CÔNG BỘC HỌ “HỨA”




🇻🇳 Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang nỗ lực, quyết liệt triển khai các phong trào, chương trình hành động đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, nhiệm kỳ 2020-2025.

Việc học tập, quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng được triển khai gắn liền với tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tổ chức thắng lợi cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Những ngày hội lớn của non sông tạo nên môi trường văn hóa tinh thần tích cực, lành mạnh. Đây là cơ hội để cán bộ, đảng viên thể hiện vai trò trách nhiệm, xứng đáng là công bộc của dân...

Khi cán bộ đã hứa là làm

Đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống, nhiều cấp ủy, tổ chức Đảng và cán bộ chủ chốt đã thực hiện tốt vai trò nêu gương, tận dụng, khai thác lợi thế, tiện ích của công nghệ thông minh để truyền tải, thực hiện hiệu quả những lời hứa, cam kết trước dân. Những tấm gương cán bộ gương mẫu trong vùng tâm dịch Covid-19 ở các địa phương, như: Hải Dương, Bình Dương, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh... thời gian qua được truyền thông phản ánh, đã lan tỏa những nét đẹp bình dị mà cao quý từ lời hứa, cam kết hành động của công bộc. Chẳng hạn, chuyện lãnh đạo UBND tỉnh Bình Dương lập nhóm kết nối zalo với người dân trong khu cách ly để trực tiếp nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, hứa hẹn và chỉ đạo giải quyết nhanh chóng, kịp thời những kiến nghị của dân, đã nêu gương sáng về sự gần dân, sâu sát cơ sở.

Cùng với công khai số điện thoại, lập đường dây nóng để tiếp nhận phản ánh của dân, thời gian gần đây, nhất là trong bối cảnh phòng chống dịch Covid-19, mô hình dùng zalo, mạng xã hội kết nối giữa cán bộ, đảng viên với dân đã và đang được rất nhiều cấp ủy, đơn vị, địa phương thực hiện hiệu quả. Thông qua sự tương tác trực tiếp, giúp cán bộ nắm chắc tâm tư, nguyện vọng và những bức xúc của dân. Trong quá trình thừa hành công vụ theo chức trách, nhiệm vụ được giao, nếu cán bộ, đảng viên có lỡ “quên” lời hứa thì sẽ được nhắc nhở, chấn chỉnh kịp thời.

Một trong những câu chuyện về lời cam kết của cán bộ được dư luận truyền thông quan tâm, chú ý thời gian gần đây là sự chỉ đạo kịp thời, quyết liệt của đồng chí Nguyễn Thành Phong, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh về xử lý tình trạng ô nhiễm tiếng ồn từ karaoke tự phát. Từ phản ánh của người dân, người đứng đầu chính quyền thành phố đã lắng nghe, tiếp thu, cam kết trước dân sẽ chỉ đạo xử lý dứt điểm. Và thực tế đã chứng minh, ông đã hành động ngay theo cách đã hứa là làm. Từ sự chỉ đạo kịp thời, quyết liệt của Chủ tịch UBND thành phố, các ngành chức năng đã vào cuộc, được sự ủng hộ, đồng hành một cách tự giác của người dân, tình trạng ô nhiễm tiếng ồn từ karaoke tự phát đã được giải quyết dứt điểm, triệt để trong một thời gian rất ngắn. Lòng dân là thước đo chính xác nhất và những đánh giá của dân là công bằng, khách quan nhất. Tại các cuộc tiếp xúc cử tri vừa qua, người đứng đầu chính quyền TP Hồ Chí Minh đã nhận được tình cảm yêu mến, tin cậy của cử tri về phong cách nói đi đôi với làm, lan tỏa tinh thần trách nhiệm đến với cán bộ, đảng viên các cấp.

Một câu chuyện khác thể hiện tính nhân văn sâu sắc về mối quan hệ đồng chí đồng đội trong môi trường quân ngũ ở Quân đoàn 4. Chuyện là trong những lần đối thoại dân chủ với cán bộ, chiến sĩ ngay sau khi được bổ nhiệm là người chỉ huy cao nhất quân đoàn, Thiếu tướng Phạm Xuân Thuyết, Tư lệnh Quân đoàn 4 đã lắng nghe, thấu hiểu, chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống gia đình, nhu cầu bức thiết về nhà ở của nhiều sĩ quan trẻ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng. Đồng chí đã hứa với cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền, sẽ dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề này. Hứa là làm, đồng chí tư lệnh quân đoàn đã đề xuất Thường vụ Đảng ủy Quân đoàn 4, đưa vào nghị quyết việc giải quyết nhu cầu nhà ở, an cư lạc nghiệp cho cán bộ, sĩ quan trẻ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng trong toàn quân đoàn là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm. Trên cơ sở đó, tư lệnh quân đoàn đã chỉ đạo các cơ quan chức năng lập đề án xin ý kiến của Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, triển khai mô hình nhà công vụ. Với hiệu quả dân vận khéo, bằng cách làm sáng tạo, tiết kiệm, năm 2020 được coi là năm đột phá mạnh mẽ của Quân đoàn 4 về lĩnh vực này. Chỉ trong một năm, Quân đoàn 4 đã hoàn thành hơn 300 căn nhà công vụ (trung bình mỗi căn có diện tích gần 70m2), cả xây dựng mới, hoán cải công năng, sửa chữa, nâng cấp, đáp ứng nhu cầu nhà ở cho một bộ phận lớn các gia đình quân nhân. Quân đoàn 4 là điểm sáng tiêu biểu của toàn quân về chăm lo hậu phương quân đội, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị trung tâm...

Lấy xây để chống, nhân rộng điển hình

Tại Đại hội chiến sĩ thi đua nông nghiệp toàn quốc lần thứ III, ngày 23-5-1958, Bác Hồ đã nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Đã hứa thì phải làm, làm thì nhất định phải được”. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, trong bối cảnh hiện nay, tinh thần cống hiến vì dân, khát vọng xây dựng đất nước hùng cường là dòng chủ lưu của đời sống xã hội. Chính vì vậy, khuôn khổ một bài báo không thể đề cập được nhiều mô hình hay, cách làm hiệu quả từ các cấp ủy, tổ chức Đảng. Nêu một số dẫn chứng như trên để thấy, trong quá trình đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, chúng ta phải kiên định, thống nhất cao tinh thần lấy xây để chống. Phê bình, đấu tranh là để chỉ ra khuyết điểm của đồng chí mình, giúp đồng chí, đồng đội khắc phục, sửa chữa để xứng đáng hơn với niềm tin, sự gửi gắm từ mỗi lá phiếu trong đại hội, xứng đáng là công bộc của dân. Với tinh thần ấy, việc nêu gương, nhân rộng điển hình từ mỗi cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đó là chất xúc tác để lan tỏa văn hóa đạo đức công bộc, lấy cái đẹp dẹp cái xấu.

Lời hứa là một biểu hiện của văn hóa công bộc, là thuộc tính thể hiện bản ngã của con người. Nhìn nhận, đánh giá lời hứa của cán bộ, của đồng chí, đồng đội mình nhiều khi không thể lượng hóa một cách máy móc mà nó còn phụ thuộc vào góc nhìn, thái độ của người phê bình. Để giúp đồng chí mình thực hiện lời hứa thì bản thân mỗi cán bộ, đảng viên trong cấp ủy, tổ chức Đảng phải có cách tiếp cận, phê bình, góp ý thân tình. Bao trùm lên tất cả là phải thực tâm có tinh thần xây dựng, có ý thức cầu tiến, cầu thị, tiếp thu thì việc phê bình, tự phê bình mới đạt hiệu quả, yêu cầu đề ra, giúp cán bộ đã hứa thì thì phải làm và làm thì nhất định phải được...


Thứ Năm, 22 tháng 4, 2021

CÁI KẾT CHO LÊ THỊ BÌNH

 



Ngày 22-4, TAND quận Bình Thủy (TP Cần Thơ) xét xử sơ thẩm đã tuyên phạt Lê Thị Bình (45 tuổi) hai năm tù về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Theo cáo trạng, Bình tham gia mạng xã hội Facebook với các tài khoản sử dụng là “Binh Lê”, sau đó đổi tên thành “Lê Ngoclan Ct”, “Ngoc Lan CT Ngoc CT Le”, “Anna Nguyen”.


Trong thời gian từ tháng 10-2019 đến tháng 11-2020, Bình thường xuyên sử dụng các tài khoản Facebook này bằng điện thoại di động có kết nối Internet để phát trực tiếp (livestream), đăng tải và chia sẻ các bài viết có nội dung nhằm mục đích thể hiện quan điểm cá nhân của mình để mọi người cùng đóng góp ý kiến và chia sẻ. Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Bình Thủy, TP Cần Thơ đã làm việc với những người có tương tác với Bình trên mạng xã hội, đồng thời thu giữ, tạm giữ nhiều vật chứng có liên quan. Đáng chú là 47 file là các file video clip livestream và các file bài viết đã đăng và chia sẻ trên các tài khoản Facebook của Bình.


Theo các kết luận của Sở TT&TT TP Cần Thơ ngày 27-4-2020 và ngày 9-12-2020, thông tin trong file livestream và các file bài viết cùng hình ảnh lồng ghép, minh hoạt đều có nội dung vi phạm quy định tại khoản 1 và 4, Điều 12 Luật Viễn thông (về các hình vi bị cấm trong hoạt động viễn thông). Đồng thời, vi phạm điểm a, d Khoản 1, Điều 5 Nghị định 72/2013 về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin mạng; điểm b, c, d, e Khoản 1 Điều 8 về các hành vi bị nghiêm cấm về an ninh mạng và điểm a, đ, e Khoản 1 Điều 18 Luật An ninh mạng.


Nội dung trong file livestream và các file bài viết thể hiện rõ thông tin tuyên truyền tư tưởng, quan điểm xấu, phản động nhằm chống đối, chống phá, nói xấu, xúc phạm, xuyên tạc, phỉ báng đối với tổ chức Đảng, Nhà nước và cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là xúc phạm nghiêm trọng đối với Lãnh tụ Hồ Chính Minh; thực hiện kêu gọi đòi đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ chế độ./.

Thứ Tư, 21 tháng 4, 2021

KHẮC PHỤC BỆNH HÌNH THỨC, ĐỐI PHÓ TRONG HỌC TẬP NGHỊ QUYẾT ĐẢNG HIỆN NAY

 



Thông thường trung bình trong một năm, các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở phải triển khai thực hiện học tập, quán triệt và tuyên truyền từ 3 đến 5 nghị quyết của Đảng đến từng chi bộ, từng đảng viên để học tập và thực hiện. Thế nhưng cách thức tổ chức thực hiện và hiệu quả của việc học tập nghị quyết đến đâu đang là một vấn đề cần được nhận diện đầy đủ, phân tích rõ nguyên nhân, đưa ra những giải pháp khắc phục kịp thời, góp phần xây dựng và chỉnh đốn Đảng.


Nhìn nhận và quan sát dưới góc độ một đảng viên gần 20 năm tuổi đảng, đã tham gia học tập rất nhiều nghị quyết của Đảng. Qua quá trình học tập, sinh hoạt nhận thấy có nhiều vấn đề cần phải bàn luận, để góp phần nâng cao hiệu quả của việc học tập nghị quyết.


Trong cấu trúc của mỗi một nghị quyết của Đảng bao giờ cũng có một phần quy định về tổ chức thực hiện và trong đó sẽ có một điểm liên quan đến học tập, quán triệt nghị quyết. Tùy từng đối tượng, nội dung, phạm vi để quy định một cách chi tiết việc tổ chức học tập, thực hiện nghị quyết, nhưng tựu trung lại đó là: Các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương tổ chức học tập, quán triệt sâu sắc nội dung nghị quyết; hoặc Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức việc học tập, quán triệt và tuyên truyền sâu rộng nghị quyết, kết quả thực hiện nghị quyết; hoặc  Nghị quyết, chỉ thị này được phổ biến đến từng chi bộ.


Trước hết, phải khẳng định rằng việc học tập nghị quyết của Đảng là chủ trương đúng để đưa nghị quyết đến từng chi bộ, từng đảng viên và thông qua đảng viên gián tiếp đến với đông đảo tầng lớp nhân dân nắm rõ những định hướng, chủ trương, chính sách và thực hiện nghị quyết. Và, cũng phải thừa nhận rằng, các cấp ủy đảng đã “hoàn thành nhiệm vụ” dưới góc độ “tổ chức lớp học” để triển khai quán triệt việc thực hiện các nghị quyết.


Thế nhưng, thực tiễn triển khai thế nào và cách thức thực hiện, hiệu quả mang lại ra sao là vấn đề cần được quan tâm nhận diện và đánh giá một cách khách quan, trung thực và thẳng thắn. Từ đó để điều chỉnh, uốn nắn kịp thời, tránh việc chỉ tổ chức thực hiện học tập mang tính hình thức và báo cáo “đã triển khai tổ chức học tập nghị quyết”.


Thứ nhất, nhìn nhận dưới góc độ triển khai nghị quyết của các cấp ủy đảng.


Trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước của nước ta hiện nay bao gồm các cơ quan quản lý theo ngành hay lĩnh vực ở Trung ương và địa phương; có cơ quan được thiết kế thành hệ thống tập trung theo ngành dọc hoặc theo cấp chính quyền địa phương, trong khi đó không phải nghị quyết nào của Đảng cũng bao trùm toàn bộ các vấn đề liên quan đến tất cả các bộ, ban, ngành, đoàn thể hay địa phương. Do vậy, cần phải xem lại việc các cấp ủy đảng tổ chức học những nghị quyết mà ít có liên quan, hoặc ít có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của bộ, ban, ngành, địa phương, đơn vị mình. Có như vậy việc học tập nghị quyết mới mang lại tính thiết thực và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của ngành, địa phương, cơ quan đơn vị. Và từ đó, mỗi đảng viên mới cảm thấy nghị quyết này là thiết thực với công việc đang triển khai của đơn vị mình, mới hăng say học tập, lắng nghe, tìm hiểu và thấm nhuần, đồng thời mới vận dụng khả năng tư duy, sáng tạo trong thực hiện nghị quyết.


Thứ hai, nhìn nhận về ý thức học tập nghị quyết của đảng viên.


Có lẽ không ít đảng viên đang tồn tại một suy nghĩ ngấm ngầm bất thành văn và cùng nhau đối phó “đi học cho đủ người, họ điểm danh đấy”, hoặc “khi nào điểm danh nháy máy nhé”, hoặc “nhớ giơ tay hộ nhé”, hoặc “nhớ ghi tên hộ nhé”,… Tất cả những biểu hiện này là do ý thức đối phó trong việc tham gia học tập nghị quyết.


Bản thân tôi cũng đã có lần đứng trên bục với vai trò thuyết trình, dẫn dắt một vài chuyên đề sinh hoạt đảng, có đứng ở trên nhìn xuống dưới mới thấy rõ những biểu hiện về ý thức học tập nghị quyết của nhiều đảng viên.


Dãy bàn ở trên thông thường được bố trí cho những vị đại biểu, những người giữ chức vụ lãnh đạo đơn vị, nhưng ngay cả dãy bàn này nhiều khi trước mặt đại biểu là những tập tài liệu được coi là phải giải quyết ngay, hoặc là bàn luận công chuyện với lãnh đạo đồng cấp khác, hoặc là gọi điện điều hành công việc ở cơ quan mà ít chú ý, lắng nghe đến báo cáo viên đang truyền đạt nghị quyết. Lãnh đạo đã vậy, thì cấp dưới sẽ ra sao?


Những dãy bàn kế tiếp sẽ thuộc về đối tượng lãnh đạo cấp thấp hơn. Ở phân khúc này thì thường xuyên biểu hiện qua những câu chuyện thì thầm, hàn huyên với nhau, ít có biểu hiện lắng nghe nghị quyết. Những câu chuyện về chủ đề về ship hàng, về giúp việc, về làm đẹp, về du lịch, giảm cân theo phương pháp luyện tập yoga - fitness, về ứng xử mẹ chồng, nàng dâu, hoặc uống bia ở đâu ngon mà không bị đau đầu,… trở nên hấp dẫn trong những buổi học nghị quyết.


Một trạng thái khác của lớp học thường phổ biến trong thời đại công nghệ 4.0 đó là mỗi người một máy điện thoại thông minh, hầu như mọi màn hình đều ở trạng thái kết nối in-tơ-net bật sáng. Chưa có một khảo sát, đánh giá bằng con số cụ thể nhưng dám chắc rằng đến 50 % số người khi tham gia học nghị quyết đều có tham gia sử dụng điện thoại cho mục đích giải trí thông qua mạng xã hội.


Và cũng thứ tự theo đúng thứ bậc rõ ràng, xa xa những hàng ghế cuối cùng là những người hay ngủ, hoặc có ý định ra về sớm, làm việc riêng,… đều lựa chọn những vị trí phù hợp này để thực hiện các mục đích cá nhân của mình một cách thuận tiện và lặng lẽ.


Ngoài ra, còn rất nhiều biểu hiện như đi muộn, về sớm, ra vào giữa giờ, nghe nói chuyện điện thoại,… diễn ra thường xuyên trong mỗi đợt học tập nghị quyết của Đảng.


Từ những biểu hiện trên đây đã phần nào làm giảm đi tính nghiêm túc của một lớp học nghị quyết, giảm đi hiệu quả việc triển khai học tập nghị quyết của Đảng và dẫn đến không hiệu quả, tốn kém cả về thời gian và ngân sách, trong khi đó công việc chuyên môn phải gác lại để dành thời gian cho việc học tập nghị quyết. Và tôi tin rằng, sau những buổi học nghị quyết như thế, rất nhiều người trong số đó đã không hiểu và nắm được gì về nghị quyết mà mình vừa được truyền đạt.


Một số đề xuất


Một là, cơ quan ban hành nghị quyết cần đánh giá lại một cách trung thực, khách quan về hiệu quả đạt được của việc triển khai học tập, tuyên truyền thực hiện nghị quyết. Từ đó xem xét lại một cách toàn diện trong tổ chức triển khai, học tập nghị quyết.  


Hai là, về phía cơ quan tổ chức lớp học cần phải xem xét, sàng lọc những nội dung, nghị quyết liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình để học tập thì mới phát huy hiệu quả. Bên cạnh đó, cần phải có phương pháp, cách thức tổ chức lớp học làm sao cho thật hiệu quả, kể cả về thời gian, địa điểm tổ chức, tránh tình trạng những năm vừa qua, có những nơi chọn đúng thời điểm những ngày cuối năm để tổ chức; kể cả khâu trang trí cũng nên thay đổi bằng hình thức thiết kế trình chiếu slide thay cho việc in ấn phông bạt, vừa tiết kiệm, vừa bảo vệ được môi trường. Việc điểm danh hoặc báo cáo số liệu người tham gia học tập cũng đã được đặt ra nhưng kết quả cũng chỉ là lưu trữ trong hồ sơ tổ chức lớp học. Việc báo cáo thu hoạch sau mỗi lớp học nghị quyết đều diễn ra, tuy nhiên, cần đổi mới và thiết kế lại, tránh tình trạng 100% đảng viên đã viết đầy đủ thu hoạch nhưng bản thu hoạch được sao chép của nhau, thay tên đổi họ và in, gửi nộp ban tổ chức, gây lãng phí tài chính, ngân sách của đơn vị. Đảng viên đi học không hiểu, hoặc hiểu lơ mơ một cách chung chung và không thấm nhuần những tư tưởng chỉ đạo đã nêu trong nghị quyết, dẫn đến vô tình hoặc cố ý hành động và thực hiện không đúng với chủ trương, đường lối của Đảng đề ra.


Ba là, về báo cáo viên và nội dung truyền đạt. Cần phải thuyết trình có trọng tâm, trọng điểm hơn, tránh tràn lan và không thiết thực. Cái mà đảng viên cần đó là phương pháp, cách thức, quy trình để vận dụng nghị quyết trong thực thi nhiệm vụ được giao, việc thực hiện đó có những trở ngại, khó khăn hoặc mâu thuẫn như thế nào, nếu thực hiện và không thực hiện thì sẽ ra sao? Bản thân báo cáo viên phải nghiên cứu kỹ đối tượng học tập nghị quyết để truyền đạt nội dung của nghị quyết phù hợp.


Bốn là, về ý thức của đảng viên, từng đảng viên phải từ bỏ quan niệm và thói quen đã tồn tại bấy lâu là đi học cho đầy đủ số lần, số lượng quy định; từ bỏ ý nghĩ việc triển khai nghị quyết là trách nhiệm thuộc về các cấp lãnh đạo, mình "thì chỉ đâu đánh đấy", mà thiếu đi trách nhiệm và nghĩa vụ phải tiếp thu, phải lĩnh hội những quan điểm, mục đích, ý nghĩa nghị quyết mà Đảng đã phải dày công thiết lập, để từ đó xây dựng cho mình một kế hoạch, hoặc cùng tổ chức thực hiện nghị quyết đó. 


Mỗi một nghị quyết của Đảng đều chứa đựng và thể hiện những quan điểm, định hướng, chủ trương, chính sách và đường lối phát triển cho đất nước, địa phương. Nghị quyết đã ban hành phải được triển khai, phổ biến thống nhất trong toàn Đảng và được thực hiện mang ý nghĩa hành động thiết thực để phục vụ nhân dân, để xây dựng đất nước ngày càng phát triển. Vì vậy, nâng cao hiệu quả học tập nghị quyết là yêu cầu bức thiết để nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống hiệu quả./.

ĐỂ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÀ QUỐC SÁCH HÀNG ĐẦU

 



Kế thừa tinh thần các kỳ đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng rất quan tâm đến phát triển giáo dục và đào tạo.


NHỮNG ĐIỂM MỚI NỔI BẬT


Thứ nhất, về đề mục, các văn kiện lần này, như trong Báo cáo Chính trị  tập trung đề cập đến giáo dục và đào tạo ở mục V, so với Đại hội XII, tên đề mục đã thay cụm từ “phát triển” bằng cụm từ “nâng cao” chất lượng nguồn nhân lực và thêm cụm từ “phát triển con người”. 


Trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2021-2030,vấn đề này được đề cập ở tiểu mục 3, phần V, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế- xã hội, với tiêu đề: Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. 


Theo đó, Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2021-2030 đã trực tiếp đề cập đến giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, đối chiếu với trước đây chỉ nhấn mạnh “phát triển nhanh giáo dục và đào tạo”.


Thứ hai, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo, yêu cầu phải “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước”[1]. Trước đây chỉ đề cập phương hướng chung: “giáo dục là quốc sách hàng đầu”.


Văn kiện lần này yêu cầu xác định rõ mục tiêu của giáo dục và đào tạo trong giai đoạn tới, nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khoẻ, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc và “Chú trọng giáo dục phẩm chất, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[2]. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Thứ ba, nhấn mạnh, giáo dục và đào tạo thích ứng với Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, do vậy phải đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người. Nếu như trước đây chỉ đề cập:“chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức”, thì Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong quản lý, quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đặc biệt, chú ý phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân tài cho phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt; bảo đảm thống nhất với chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, nhất là ở nông thôn; giảm tỉ lệ lao động khu vực phi chính thức. Hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao động.


Thứ tư, cụ thể hóa yêu cầu hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, sắp xếp lại hệ thống trường học, phát triển hài hoà giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo và các đối tượng chính sách. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Đặc biệt chú trọng giáo dục mầm non, tiểu học trong điều kiện mới, tạo tiền đề và bảo đảm điều kiện thuận lợi, để mỗi người dân đều được thụ hưởng một cách công bằng thành quả của nền giáo dục. Thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời. Củng cố và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục.


 Thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới. Có chính sách đột phá phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục đại học. “Có cơ chế hỗ trợ xây dựng một số trường đại học lớn và đại học sư phạm trở thành những trung tâm đào tạo có uy tín trong khu vực và thế giới” [2]. Thúc đẩy phát triển các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao. Xây dựng các cơ chế, chính sách và giải pháp để đào tạo lại lực lượng lao động phải chuyển đổi nghề nghiệp do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.


Thứ năm, tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo, như: thực hiện phổ cập giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học bắt buộc. Đưa vào chương trình giáo dục phổ thông nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu, chú trọng xây dựng nền tảng kỹ năng nhận thức và hành vi cho học sinh phổ thông. Nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học ngoại ngữ, coi trọng dạy, học và sử dụng tiếng Anh. Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Giảm tỉ lệ mù chữ ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số. Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo. Nghiên cứu để hoàn thiện, ổn định hệ thống sách giáo khoa và chế độ thi cử ở các cấp học.


Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực tuyến, qua Internet, truyền hình, các hoạt động xã hội, ngoại khoá, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. ”Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế”[3].


Thứ sáu, xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển giáo dục Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, “Lấy chất lượng và hiệu quả đầu ra làm thước đo. Xây dựng và triển khai thực hiện lộ trình tiến tới miễn học phí đối với học sinh phổ thông, trước hết là đối với học sinh tiểu học và trung học cơ sở” [4]. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển các cơ sở đào tạo ngoài công lập phù hợp với xu thế của thế giới và điều kiện của Việt Nam trên cơ sở bảo đảm công bằng xã hội và các giá trị cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhấn mạnh hơn yêu cầu thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội trong giáo dục và đào tạo. Tiếp tục thực hiện cơ chế tự chủ một số trường phổ thông tại các đô thị lớn, các nơi có điều kiện; thí điểm cơ chế cho thuê một số cơ sở giáo dục sẵn có theo nguyên tắc bảo đảm tất cả học sinh được đến trường.


Thứ bảy, tiếp tục hoàn thiện các khâu, các yếu tố của quá trình đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh đổi mới đồng bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý và quản trị nghiệp vụ chuyên môn trong giáo dục và đào tạo, từng bước thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục và đào tạo. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kiên quyết khắc phục bệnh thành tích, ngăn ngừa và xử lý nghiêm các tiêu cực trong giáo dục và đào tạo. Hoàn thiện và thực hiện ổn định các phương thức đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục và đào tạo, thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng và đào tạo nghề. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo.


 Thứ tám, đặt ra mục tiêu Việt Nam tham gia thị trường đào tạo nhân lực quốc tế, vì vậy yêu cầu hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của các cơ sở giáo dục và đào tạo. ‘Gắn kết chặt chẽ giáo dục và đào tạo với nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới; hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, các nhóm đổi mới sáng tạo mạnh“[5]. Thực hiện đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động. Cùng với đề cao vị trí, vai trò và trách nhiệm xã hội, cần đổi mới mạnh mẽ chính sách đãi ngộ, chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt, sắp xếp, đổi mới căn bản hệ thống các cơ sở đào tạo sư phạm, thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách và giải pháp để cải thiện mức sống, nâng cao trình độ và chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.


Tiếp tục khẳng định “Giáo dục và đào tạo có vị trí then chốt”, những điểm mới về giáo dục, đào tạo trong các văn kiện Đại hội XIII thể hiện rõ ý nghĩa sâu sắc. Khẳng định tính kế thừa, sự nhất quán trong quan điểm của Đảng ta, luôn coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu để Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, thực hiện khát vọng phát triển đất nước trong thời gian tới. Thể hiện sự nhanh nhạy của Đảng, Nhà nước Việt Nam, thích ứng với xu thế thời đại, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, thành tựu của giáo dục và đào tạo trên thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Bên cạnh đó, tiếp tục làm sáng tỏ hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có lộ trình và bước đi phù hợp, lấy con người là trung tâm, trên nền tảng của sự phát triển  giáo dục và đào tạo./.


PGS.TS. Phạm Văn Linh

Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương

Thứ Hai, 19 tháng 4, 2021

SINH HOẠT TRÁI PHÉP “HỘI THÁNH ĐỨC CHÚA TRỜI MẸ” TẠI NGHỆ AN




                     


Kiểm tra căn hộ trên tầng 26 của một chung cư trên địa bàn TP Vinh, lực lượng chức năng phát hiện hơn 10 đối tượng mang theo cả con nhỏ tụ tập sinh hoạt Hội thánh của Đức Chúa Trời Mẹ trái phép.

Ngày 19/4, Phòng An ninh đối nội cho biết, đơn vị vừa phối hợp Công an TP Vinh, Công an phường Hưng Dũng phát hiện nhóm đối tượng sinh hoạt Hội thánh của Đức Chúa Trời Mẹ trái phép.

Vụ việc được phát hiện vào ngày 17/4, khi lực lượng chức năng kiểm tra căn hộ 2610, chung cư Mường Thanh Cửa Đông (số 167, đường Nguyễn Phong Sắc, phường  Hưng Dũng, Thành phố Vinh) phát hiện có 16 người (gồm 11 người lớn và 5 trẻ em) đang tụ tập sinh hoạt Hội thánh của Đức Chúa trời Mẹ trái phép gồm: Hoàng Văn Thức (SN 1980), trú tại huyện Diễn Châu; Dương Đình Hưng (SN 1980), trú tại huyện Anh Sơn; Nguyễn Đình Tám (SN 1985), Nguyễn Thị Hậu (SN 1988), cùng trú tại Hà Nội; Nguyễn Thị Cúc (SN 1950), Nguyễn Đức Năm (SN 1982), Nguyễn Thị Hòa (SN 1972), Nguyễn Đức Hưng ( SN 2005), cùng trú tại thị xã Thái Hòa;  Dương Lê Nhâm (SN  1973), Nguyễn Anh Hằng (SN 1987), cùng trú tại  TP Vinh; Lê Thị Thu Hiền (SN 1989), trú tại tỉnh Hòa Bình và Lý Thị Thảo (SN 1981), trú tại tỉnh Quảng Ngãi

Tại hiện trường thu giữ 3 chai nước màu tím loại 1,5 lít và 1 chai nhỏ 330ml dạng siro nho (nước dùng để làm lễ), 2 tấm vải trắng, 5 chiếc khăn voan trắng trùm đầu, nhiều sổ ghi chép và các tờ rơi có ghi nội dung liên quan đến Hội thánh của Đức Chúa Trời Mẹ. 

Tổ công tác đã mời số đối tượng trên về trụ sở Công an phường Hưng Dũng để làm rõ nội dung sự việc. 

Qua đấu tranh khai thác, các đối tượng khai nhận đang tổ chức sinh hoạt ngày Sa-bát của Hội thánh của Đức chúa trời Mẹ do đối tượng Hoàng Văn Thức (SN 1980), trú tại xã Diễn Bích, huyện Diễn Châu cầm đầu, tổ chức.

Hiện lực lượng Công an đã lập biên bản sự việc, tạm giữ các tài liệu liên quan, buộc các đối tượng cam kết không thực hiện các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật trên địa bàn, đồng thời thông báo cho chính quyền địa phương nơi các đối tượng trên cư trú để quản lý, giáo dục./.


THỦ ĐOẠN PHỤC DỰNG 3 SỌC






Vụ quán cafe Army tại Đồng Nai là một minh chứng điển hình nữa cho xu hướng “phục dựng hình ảnh của Việt Nam cộng hoà”.

Xu hướng này thời gian qua đã hiện hữu, luồn lách từ những bài hát,bài viết ca ngợi chế độ ngụy rồi đến hội những người yêu đồ lính và nay là quán cafe “ngụy”.

Nhìn những thiết bị điện đài kia, nhìn những cái túi xách thương hiệu US kia, tôi thấy đằng sau đó thẫm đẫm máu của bao nhiêu đồng bào mình.

Vậy mà chúng nó định đưa ra trưng bày, triển lãm, làm đồ nhắm cho món cafe. Nếu quán cafe này được hoạt động, chắc chắn nó sẽ được khoác chiếc áo “cafe Việt Nam Cộng hoà. Và nó sẽ là địa chỉ tụ tập của đám hậu duệ cái chế độ ba sọc đó.

Phải chăng có một bộ phận người đang tìm cách phục dựng lại cái thây ma Việt Nam cộng hoà.

Để rồi đến một ngày, sẽ có những kẻ lại lên tiếng đòi bỏ tử ngụy khỏi các sách báo chính thống.

Tháng tư về, nhìn quán cafe ngụy, tôi lại thấy nhói lòng bởi bao nhiêu bậc tiền nhân đã ngã xuống vì Tổ quốc vẫn chưa được về bên quê mẹ, thế mà có những kẻ đi vinh danh một chế độ bán nước!

AN NINH CON NGƯỜI VÀ NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG MỚI




Trong định hướng và nhiệm vụ trọng tâm nói trên, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh yếu tố “an ninh con người”. Khái niệm này lần đầu tiên được đưa vào Nghị quyết Đại hội Đảng, thể hiện quan điểm, tư duy mới trong đảm bảo an ninh quốc gia mà trọng tâm là vấn đề an ninh con người...

Nhiệm vụ thứ 7 trong định hướng phát triển đất nước đến năm 2030, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”.

Đồng thời, Nghị quyết xác định một trong các nhiệm vụ trọng tâm nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng là: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam”. 

Trong định hướng và nhiệm vụ trọng tâm nói trên, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh yếu tố “an ninh con người”. Khái niệm này lần đầu tiên được đưa vào Nghị quyết Đại hội Đảng, thể hiện quan điểm, tư duy mới trong đảm bảo an ninh quốc gia mà trọng tâm là vấn đề an ninh con người.

Thực tế, khái niệm an ninh con người do Chương trình phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) đưa ra đầu tiên vào năm 1994 trong báo cáo hàng năm về sự phát triển của con người. UNDP cho rằng: An ninh con người là sự an toàn của con người trước những mối đe dọa kinh niên như nghèo đói, bệnh tật, đàn áp và những biến cố bất ngờ, bất lợi trong cuộc sống hằng ngày.

An ninh con người được đặt ra trong mối quan hệ mật thiết với những nội dung an ninh khác, an ninh con người có mối quan hệ với thời đại, xã hội và môi trường tự nhiên. An ninh con người trở thành một nhân tố, điều kiện quan trọng để thực hiện cũng như bảo đảm an ninh xã hội, an ninh toàn cầu. Đây là một phần của an ninh quốc gia, chính trật tự, kỷ cương mang lại môi trường, cuộc sống an toàn cho mọi người dân và từ môi trường đó càng củng cố niềm tin của người dân đối với Đảng, chế độ, củng cố niềm tin vào cuộc sống an lành.

Thực tiễn cho thấy, xã hội được bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn chính là thước đo quan trọng hàng đầu phản ánh chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của người dân. Dù cho người dân có thu nhập tốt, mức sống cao nhưng nếu xã hội bất ổn về chính trị, bị đe dọa về nạn khủng bố, xung đột, bạo loạn… sẽ gây đảo lộn cuộc sống, làm cho tâm lý người dân hoang mang, lo sợ và cuộc sống chung của toàn xã hội sẽ bất an, nguy hiểm.

Ngược lại, xã hội được bảo đảm an ninh không chỉ loại trừ được sự nguy hiểm đe dọa sinh mạng, sức khỏe mà còn đòi hỏi sự bảo đảm cho cuộc sống bình thường của mỗi con người, sự ổn định, hạnh phúc trong cuộc sống.

Vấn đề an ninh con người đã được Liên Hợp quốc và nhiều nước trên thế giới tiếp nhận như một tư duy mới có sức thuyết phục và có giá trị thực tiễn cao. Con người đặt ở vị trí trung tâm của thời cuộc, của xã hội là mang tính khách quan bởi xã hội suy cho cùng là xã hội của con người và vì con người. Thực hiện an ninh con người sẽ bổ sung và làm phong phú cho an ninh quốc gia và an ninh toàn cầu.

Tuy nhiên, từ khái niệm chung về an ninh con người lại có cách hiểu cụ thể khác nhau, dẫn tới những chính sách và hành vi rất khác nhau. Thể chế chính trị Việt Nam coi trọng an ninh con người, đề cao vai trò của quần chúng nhân dân, coi nhân dân là người chủ thực sự của xã hội. Do đó, các chính sách và an ninh xã hội, công bằng xã hội, bình đẳng xã hội, xóa đói giảm nghèo… được coi trọng và thực hiện cũng chính là nhằm bảo đảm an ninh con người.

Chính việc bảo đảm được an ninh con người làm cho an ninh quốc gia được ổn định, đất nước phát triển bền vững, hài hòa. An ninh con người không tách rời an ninh quốc gia và bảo đảm an ninh con người chính là bảo đảm an ninh quốc gia. Điều này cũng nhằm phản bác lại một số luận điệu muốn tách an ninh con người khỏi an ninh quốc gia, đặt an ninh con người trên an ninh quốc gia, từ đó lấy cớ nhân quyền, dân chủ để thực hiện các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia.

Đây thực chất là hành vi lợi dụng vấn đề an ninh con người để chống phá đất nước, gây nguy hiểm đến an ninh quốc gia. Thực chất, bảo đảm an ninh con người trước hết phải là bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia của cả cộng đồng sinh sống, đó là chủ quyền thiêng liêng nhất, bao hàm an ninh con người và phục vụ cao nhất cho an ninh con người.

Trong điều kiện ngày nay, khi toàn cầu hóa với sự tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ phát triển vượt bậc kéo theo tất cả các nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và hội nhập quốc tế trở thành một tất yếu khách quan buộc tất cả các nước đều phải hòa mình vào dòng chảy đó. Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế luôn tạo ra cơ hội và thách thức đối với mọi quốc gia.

Hội nhập quốc tế đòi hỏi mỗi nước phải đề cao độc lập, chủ quyền cùng với an ninh xã hội, an ninh con người của đất nước mình. Do đó, việc bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người trong quá trình hội nhập quốc tế là một trong những vấn đề cơ bản và thiết yếu hiện nay đối với nước ta.

Về vấn đề này, tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ trưởng Bộ Công an nhấn mạnh: Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đặt nhân tố con người, an ninh con người làm trung tâm của mọi hoạt động, xác định bảo vệ an ninh con người vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định chính trị xã hội và xây dựng, phát triển đất nước trường tồn, thịnh vượng. Chú trọng an ninh, an toàn là một trong những yếu tố hàng đầu trong cuộc sống của người dân, do vậy bảo vệ an ninh quốc gia cũng chính là bảo vệ cuộc sống của người dân.

An ninh con người là trạng thái người dân được sống ổn định, an toàn, không bị đe dọa bởi các nguy cơ xâm hại. Bảo vệ an ninh con người là bảo đảm và thực thi đầy đủ các quyền con người, quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013, bảo đảm mọi người dân được sống ấm no, tự do, hạnh phúc trong một môi trường xã hội trật tự, kỷ cương, an ninh, an toàn, lành mạnh.

Để thực hiện được mục tiêu và tầm nhìn với các mốc phát triển nói trên, Đại hội XIII xác định 5 quan điểm chỉ đạo đòi hỏi quán triệt trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Trong đó quan điểm thứ hai là: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”.

Bộ trưởng Tô Lâm chỉ rõ, đây là sự kế thừa nội dung “bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc” đã được nêu ở các kỳ Đại hội trước. Đồng thời, về phương hướng phát triển đất nước đến năm 2030, Đại hội XIII khẳng định tư duy và định hướng xa hơn trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Coi việc giữ vững an ninh quốc gia vừa là mục tiêu, giải pháp để phát triển bền vững đất nước; đồng thời thể hiện tư tưởng chỉ đạo phát triển để giữ vững an ninh, an ninh để phát triển, an ninh trong phát triển./.

(*) Ảnh minh hoạ./cand. #pttayninh #bytayninh

MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN CHO CÁC KHU KINH TẾ CỬA KHẨU, BỐI CẢNH MỚI, NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

 



Khu kinh tế cửa khẩu là một công cụ phổ biến để chính quyền các nước thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với việc xây dựng và phát triển quan hệ đối ngoại. Mô hình khu kinh tế cửa khẩu hiện nay đòi hỏi phải có kế hoạch phát triển đô thị, kinh tế - xã hội, cơ chế quản trị và thực thi chính sách hiệu quả, đặc biệt là các vấn đề liên quan tới lực lượng lao động, liên kết kinh tế, đổi mới sáng tạo, an sinh xã hội và bảo vệ môi trường. Làm tốt được điều này sẽ tận dụng được lợi thế khu kinh tế cửa khẩu, đồng thời góp phần vào sự tăng trưởng, phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh - quốc phòng.


Khu kinh tế cửa khẩu được hiểu là một loại hình khu kinh tế, lấy giao lưu kinh tế biên giới qua cửa khẩu biên giới đất liền là nòng cốt, có ranh giới xác định, được thành lập bởi cấp có thẩm quyền với môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi cho phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ an ninh biên giới.


Tại Nghị định số 82/2018/NĐ-CP, ngày 22-5-2018, của Chính phủ, về “Quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế”, khu kinh tế cửa khẩu được định nghĩa là khu kinh tế hình thành ở khu vực biên giới đất liền và địa bàn lân cận khu vực biên giới đất liền có cửa khẩu quốc tế hoặc cửa khẩu chính và được thành lập theo quy định của luật pháp. Tùy vào đặc điểm và mục đích thành lập mà khu kinh tế cửa khẩu có thể được tổ chức thành các khu chức năng, như khu công nghiệp, khu phi thuế quan, khu chế xuất, khu hành chính, khu dân cư... Định nghĩa trên được sử dụng để phân biệt khu kinh tế cửa khẩu với khu kinh tế ven biển, khu kinh tế đặc biệt (đặc khu kinh tế).


Xét về vai trò, không chỉ thu hút đầu tư, hình thành doanh nghiệp và tạo việc làm mới, tạo ra quá trình chuyển giao công nghệ và kỹ năng bên trong khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu còn thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, củng cố quan hệ ngoại giao cũng như tạo ra tính hợp lực, mạng lưới kết nối và lan tỏa tri thức ra bên ngoài phạm vi khu kinh tế. Ở góc độ khác, khu kinh tế cửa khẩu cho phép chính quyền thực hiện các thử nghiệm với những cách thức tiếp cận mới về kinh tế - xã hội và góp phần tích cực vào tiến trình cấu trúc lại nền kinh tế. Chính vì lý do này, xu thế hình thành các khu kinh tế cửa khẩu đã gia tăng nhanh chóng tại các nền kinh tế chuyển đổi và mới nổi, đặc biệt là trong hơn ba thập niên cuối thế kỷ XX vừa qua. Cũng trong thời gian này, khu kinh tế cửa khẩu cũng trải qua các cấp độ phát triển khác nhau, như:


Ở mức độ thứ nhất, khu kinh tế cửa khẩu được định hình như một khu giao thương giữa hai hay nhiều quốc gia với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp được hưởng các ưu đãi về thuế, sử dụng nhân công giá rẻ trong môi trường làm việc tối thiểu.


Ở mức độ thứ hai, cao hơn một bậc so với hình thái giản đơn trước, khu kinh tế cửa khẩu được xem là một khu vực kinh tế cung cấp đa dạng các dịch vụ về thương mại và hậu cần. Hai hình thái này hình thành ban đầu tại các quốc gia công nghiệp và sau đó xuất hiện nhiều hơn tại các quốc gia Đông Á và Mỹ La-tinh.


Ở mức độ thứ ba, khu kinh tế cửa khẩu phát triển ở tầm một đô thị lớn, có đặc điểm mang tính rộng khắp, không bị giới hạn ở các hoạt động sản xuất và xuất khẩu, có tính tích hợp cao với phần còn lại của nền kinh tế. Đây là hình thái phát triển cao nhất của khu kinh tế cửa khẩu mà ở đó có sự kết nối hài hòa giữa hoạt động kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. 


Trong quá trình phát triển, bên cạnh nhiều mô hình khu kinh tế cửa khẩu thành công thì cũng có những trường hợp chỉ đạt được ở cấp độ thấp mà không phát triển lên được cấp độ cao hơn khi các khu công nghiệp chỉ thuần túy nhận ưu đãi về thuế mà không tạo ra thặng dư thương mại, không đem lại hiệu ứng lan tỏa, thậm chí còn gây ra những hệ lụy về an sinh xã hội và môi trường. Khi các hiệp định thương mại tự do (FTA) được ký kết nhiều hơn, mô hình khu kinh tế cửa khẩu truyền thống khó có thể duy trì được sự phát triển của mình nếu không có sự thay đổi. Một số khu kinh tế cửa khẩu chỉ huy động được vốn đầu tư và giải quyết việc làm trong ngắn hạn mà không duy trì được thành công trong dài hạn khi các lợi thế về lao động giá rẻ, ưu đãi về thuế, đất đai không còn nữa, là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các hạn chế phát triển của khu kinh tế cửa khẩu. Ngoài các yếu tố kể trên, nhiều nguyên nhân khác dẫn tới thất bại của khu kinh tế cửa khẩu cũng được nhắc đến, như chi phí đầu tư lớn, thời gian xây dựng kéo dài của hệ thống giao thông tại biên giới, sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa các quốc gia về kết cấu hạ tầng giao thông, xử lý ô nhiễm môi trường tại khu vực biên giới giữa các quốc gia. Các hoạt động di dân không chính thức và dịch bệnh truyền nhiễm khó kiểm soát cũng có thể làm ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của khu kinh tế cửa khẩu. Đầu thế kỷ XXI, bối cảnh kinh tế - chính trị - xã hội trên bình diện quốc tế đã có nhiều thay đổi, biến động nhanh, không ổn định, mối quan hệ ngày càng phức tạp và không rõ ràng. Có thể chỉ ra năm xu hướng lớn nổi lên sau đây đã đặt ra những thách thức không nhỏ đối với mô hình khu kinh tế cửa khẩu truyền thống: 


Thứ nhất, thương mại toàn cầu và môi trường đầu tư.


Sự hình thành và phát triển của các khu kinh tế cửa khẩu truyền thống trong thế kỷ XX dựa nhiều vào hai xu hướng chính. Xu hướng thứ nhất là quá trình dịch chuyển sản xuất từ các quốc gia phát triển sang các quốc gia, vùng lãnh thổ có lực lượng lao động, tài nguyên giá rẻ kết hợp. Xu hướng này mạnh lên khi được kết hợp với chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của các quốc gia đang phát triển thông qua các ưu đãi về kết cấu hạ tầng, thuế... Xu hướng thứ hai bắt nguồn từ hoạt động tách biệt quy trình sản xuất theo chiều dọc ở nhiều ngành công nghiệp nhẹ, như điện tử, dệt may, trong đó các công đoạn có hàm lượng tri thức cao được thực hiện chủ yếu ở các quốc gia phát triển còn các công đoạn có hàm lượng tri thức thấp hơn, giá trị gia tăng thấp được thực hiện chủ yếu ở các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển khoa học - công nghệ và kinh tế - xã hội, hai xu hướng này khó có thể duy trì trong thế kỷ XXI bởi một số lý do: Một là, sau cuộc khủng hoảng tài chính - suy thoái kinh tế thế giới năm 2008, các trọng điểm tiêu dùng lớn trên thế giới, như Mỹ, châu Âu rơi vào tình trạng suy thoái kinh tế kéo dài, khiến cho xu hướng chi tiêu trở nên hạn hẹp hơn trước. Hai là, tỷ trọng thương mại trong các chuỗi giá trị sản xuất hàng hóa ngày một ít hơn khi giảm từ mức 28,1% năm 2007 xuống còn 22,5% năm 2017. Các doanh nghiệp có xu hướng sắp xếp lại các nhà máy sản xuất theo hướng gần với thị trường tiêu thụ hơn. Ba là, tỷ trọng thương mại hàng hóa diễn ra dựa vào sự chênh lệch về chi phí lao động chỉ còn khoảng 18%, thậm chí là thấp hơn ở một số chuỗi giá trị.


Thứ hai, chủ nghĩa dân túy quay trở lại.


Xu hướng toàn cầu hóa chững lại khi những hạn chế và thách thức của toàn cầu hóa được bộc lộ rõ hơn từ sau cuộc khủng hoảng tài chính - suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008. Chính sự phân bổ lợi ích không đồng đều trong thương mại toàn cầu đã tạo ra mâu thuẫn giữa các quốc gia và thậm chí là rạn nứt trong nội bộ của nhiều tổ chức toàn cầu. Các quốc gia có xu hướng thực hiện các chính sách hướng nội, bảo hộ nền sản xuất trong nước, cứng rắn hơn trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, thể hiện rõ trong các FTA và tham gia các liên minh kinh tế. 


Thứ ba, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.


Làn sóng phát minh, sáng chế và ứng dụng công nghệ số tiên tiến từ đầu những năm 2000 đã tạo ra những biến đổi sâu sắc đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh lẫn đời sống xã hội trên phạm vi toàn cầu. Xử lý dữ liệu lớn (big data) và trí tuệ nhân tạo (AI) trên nền kỹ thuật số trở thành một trong những yếu tố cạnh tranh cốt lõi của các doanh nghiệp thay vì dựa vào tài nguyên và lao động giá rẻ như trước, vì vậy đã tạo ra ảnh hưởng sâu rộng tới hoạt động sản xuất quốc tế và các chuỗi giá trị đã hình thành và hoạt động trong một thời gian dài. Bên cạnh các mô hình sản xuất ở nước ngoài (offshoring) đã được chuyển đổi lại (reshoring) nhờ sự cải tiến của công nghệ thì các chuỗi giá trị toàn cầu lại được tái định hình nhờ vào dòng dữ liệu xuyên quốc gia và các công nghệ số mới. Trong nhiều trường hợp, những công nghệ, như tự động hóa, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo đã làm giảm đi vai trò của thương mại hàng hóa và thúc đẩy sự bùng nổ của thương mại dịch vụ. 


Thứ tư, biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.


Trong khi mục tiêu giảm nghèo trên phạm vi toàn cầu có những tiến triển tốt thì công tác quản lý môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu lại chậm được cải thiện. Tình trạng ô nhiễm do sản xuất không gắn với bảo vệ môi trường, như khai thác quá mức, lạm dụng nguồn nước và đất đai, không xử lý chất thải độc hại phát sinh trong quá trình sản xuất đã gây ra hậu quả nặng nề trong cả ngắn hạn và dài hạn. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu dẫn tới các rủi ro thiên tai xuất hiện với tần suất nhiều hơn và có ảnh hưởng nặng nề hơn. Thậm chí, các khu kinh tế cửa khẩu được hình thành trong quá khứ dựa trên lợi thế về địa lý ngày nay đang phải hứng chịu ảnh hưởng của thiên tai, như bão, lũ, sạt lở, hạn hán hay xâm nhập mặn... Khi các mô hình kinh tế, trong đó có cấu phần các khu kinh tế cửa khẩu, dựa trên các quy luật sản xuất và tiêu dùng truyền thống ít lưu ý tới hậu quả môi trường và tạo ra áp lực cho xã hội, được rà soát và định hình lại, thì cách thức tổ chức của các khu kinh tế cửa khẩu ở mức độ thứ nhất và mức độ thứ hai đề cập ở trên không còn phù hợp nữa.


Thứ năm, sự bùng phát của đại dịch COVID-19.


Để đối phó với đại dịch COVID-19, Chính phủ tại hầu hết các quốc gia đã thiết lập quy định về giãn cách xã hội, nhằm ngăn chặn và giảm thiểu tình trạng lây lan của vi-rút. Đại dịch COVID-19 là một ví dụ điển hình về an ninh phi truyền thống xuyên quốc gia, buộc chính quyền và người dân các nước phải có ý thức cao hơn về biên giới quốc gia. Chính đại dịch đã thúc đẩy điều kiện để chủ nghĩa “quốc gia - dân tộc” quay lại, thể hiện qua việc đóng cửa biên giới, tạm thời chấp nhận sự gián đoạn của chuỗi cung ứng toàn cầu và ưu tiên lợi ích của quốc gia lên trước các vấn đề mang tính toàn cầu. Cũng chính đại dịch đã làm bộc lộ các vấn đề về tính hiệu quả trong các chuỗi giá trị ngành phổ biến trước đó, khiến cho các doanh nghiệp có nhận thức mới về khối lượng tồn kho trong hệ thống, tình trạng thiếu linh hoạt và chủ động trong chuỗi.


Bên cạnh các xu thế kể trên, các yếu tố khác, như yêu cầu bảo đảm điều kiện lao động tối thiểu, cải cách môi trường kinh doanh, đô thị hóa tăng nhanh... cũng buộc các khu kinh tế nói chung, đặc biệt là các khu kinh tế cửa khẩu phải giải quyết những vấn đề mang cả tính chất căn bản lẫn tính chất thời đại.


Từ các phân tích nêu trên, cần định dạng lại mô hình khu kinh tế cửa khẩu thành mô hình khu kinh tế phát triển toàn diện và đề xuất định hướng phát triển của khu kinh tế cửa khẩu theo 9 nhóm vấn đề cơ bản trong thời gian tới, như sau:


Một là, khu kinh tế cửa khẩu kiểu mới là một khu tích hợp đa mục tiêu, gồm kinh tế, an ninh - quốc phòng và ngoại giao. Khu kinh tế cửa khẩu phải phát triển theo hướng tích hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và ngoại giao của quốc gia. Thực tiễn đã chỉ ra các giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội khác nhau đòi hỏi các hình thái khác nhau của khu kinh tế.


Hai là, có chính sách đột phá về quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, gồm tổ chức bộ máy, hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao, bảo vệ môi trường. Chính sách phát triển khu kinh tế cửa khẩu kiểu mới vừa phải có tầm nhìn dài hạn, vừa phải có tính linh hoạt để bảo đảm theo kịp những thay đổi trong môi trường kinh tế, chính trị và xã hội nhiều biến động hiện nay. Cần tiếp tục bổ sung những lợi thế cạnh tranh hiện hữu, đồng thời bổ sung những động lực mới dựa trên những lợi thế cạnh tranh có tính bền vững cao. Thiết kế và xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu kiểu mới dựa trên nền tảng kỹ thuật, công nghệ và xã hội vượt khả năng của nền kinh tế hiện hữu, có chính sách phù hợp để huy động tổng hợp nguồn lực đầu tư từ xã hội để đáp ứng tính đi trước của chính sách. Trước mắt, lợi thế cạnh tranh được hình thành trên các yếu tố về vị trí địa lý, nguồn lực tự nhiên và lao động chỉ có thể phát huy trong ngắn hạn, về dài hạn, khu kinh tế cửa khẩu mới cần phải chuyển lên vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị, tăng tính kết nối về cả mặt sản xuất, nâng cao chất lượng lao động...


Ba là, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi. Hoàn thiện môi trường kinh doanh làm nền tảng cho khu kinh tế cửa khẩu kiểu mới hoạt động thuận lợi. Những ưu đãi về thuế và tài chính là nhân tố quan trọng để thu hút đầu tư nhưng sự thành công của khu kinh tế cửa khẩu kiểu mới phụ thuộc vào khả năng quản trị của đơn vị chịu trách nhiệm về công tác quản lý nhà nước. Các bộ phận thực hiện chức năng quản lý nhà nước tại khu kinh tế cửa khẩu kiểu mới cần có sự phối hợp tốt trong nội khu và hợp tác tốt với bộ phận tương ứng tại quốc gia láng giềng.


Bốn là, phát triển khu kinh tế cửa khẩu kiểu mới phải hài hòa không gian giữa sản xuất, đô thị và văn hóa. Sự phát triển của khu kinh tế cửa khẩu kiểu mới không thể tách rời khỏi sự phát triển của vùng và quốc gia. Đó là mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ, trong đó khu kinh tế cửa khẩu kiểu mới không chỉ tạo ra giá trị gia tăng nội vùng mà còn như là một đầu tàu kinh tế kéo theo các khu vực lân cận, các ngành, nghề của một quốc gia tăng trưởng theo. Đồng thời, sự phát triển của các khu vực lân cận, các ngành, nghề, thậm chí là chính sách vĩ mô, như ngoại giao, đầu tư, thương mại, tài chính, văn hóa - xã hội, bảo vệ môi trường... có ảnh hưởng gián tiếp lẫn trực tiếp tới sự phát triển bền vững của khu kinh tế cửa khẩu kiểu mới.


Năm là, ưu tiên phát triển theo chiều dọc trước so với phát triển theo chiều ngang. Thúc đẩy các cụm liên kết nội khu với phần còn lại của nền kinh tế để tạo ra lợi thế kinh tế nhờ quy mô và tính hợp lực. Trong khi phát triển theo chiều dọc tạo ra tính hợp lực thì phát triển theo chiều ngang lại thúc đẩy lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Tại các khu kinh tế cửa khẩu kiểu mới có quy mô lớn, cần khuyến khích sự tham gia của nhiều chuỗi doanh nghiệp đang hoạt động theo chiều dọc trong nhiều ngành, nghề để tạo ra tính kết nối cao. Các khu kinh tế phải tiên phong trong việc sử dụng đầu vào là hàng hóa nội địa (bao gồm cả lao động) từ đó giúp tăng sản lượng, lao động, hiệu quả sản xuất, khả năng quản trị, năng lực công nghệ và tính đa dạng thị trường của kinh tế nội địa.


Sáu là, phát triển hạ tầng đồng bộ. Khu kinh tế cửa khẩu kiểu mới không thể thành công nếu chỉ hoạt động như một “công xưởng” với tôn chỉ lợi nhuận đặt lên hàng đầu. Chất lượng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, kinh doanh thể hiện ở tính rộng khắp, sẵn sàng và hiệu quả để phục vụ không chỉ đơn thuần hoạt động sản xuất, kinh doanh của một doanh nghiệp mà còn bảo đảm tính kết nối giữa các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với người lao động và cư dân, giữa khu kinh tế với phần còn lại của quốc gia và nước láng giềng. Ngoài ra, kết cấu hạ tầng thiết yếu cho sinh hoạt, như trường học, bệnh viện, trung tâm mua sắm và giải trí... cũng cần được đầu tư để cư dân và người lao động có được sự cân bằng trong cuộc sống.


Bảy là, áp dụng công nghệ cao, ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào phát triển khu kinh tế và tạo điều kiện cho đổi mới sáng tạo. Trong bối cảnh hiện nay, mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài, thương mại và đổi mới sáng tạo ngày càng chặt chẽ. Khu kinh tế với mức tập trung cao của doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty đa quốc gia với trình độ công nghệ cao, phải được khuyến khích chuyển giao tri thức, là nền tảng quan trọng cho các hoạt động đổi mới sáng tạo. Sự hình thành của các cụm kinh tế có bộ phận nghiên cứu và công viên công nghệ, vườn ươm công nghệ nằm trong các khu kinh tế sẽ giúp tạo ra mối liên kết với các doanh nghiệp nội khu thông qua cung ứng dịch vụ nghiên cứu hoặc liên kết với bên ngoài khu kinh tế thông qua các trường đại học, cơ sở nghiên cứu khác và thậm chí là các doanh nghiệp có nhu cầu.


Tám là, bảo đảm hài hòa quyền lợi của doanh nghiệp và người lao động, coi người lao động là đối tượng ưu tiên đầu tư. Tối đa hóa lợi ích do phát triển khu kinh tế cửa khẩu kiểu mới mang lại cho các vấn đề văn hóa - xã hội, như đào tạo kỹ năng lao động, giao lưu văn hóa, bảo đảm trách nhiệm của người sử dụng lao động và quyền của người lao động, cải thiện điều kiện làm việc tối thiểu, bình đẳng giới... Đào tạo kỹ năng lao động là một giải pháp luôn đặt ra với cả phía doanh nghiệp lẫn chính quyền. Ngoài ra, xu hướng cung ứng lao động xuyên biên giới cũng đặt ra yêu cầu cho khu kinh tế cửa khẩu kiểu mới phải giải quyết những khác biệt trong chính sách lao động giữa các quốc gia. Công đoàn cần đóng vai trò hỗ trợ quan trọng trong việc bảo đảm quyền lợi của người lao động trước những ảnh hưởng bất lợi trong quá trình phát triển của các khu kinh tế cửa khẩu kiểu mới cũng như quyền lợi của chủ doanh nghiệp và nhà đầu tư.


Chín là, chú trọng bảo vệ môi trường với các tiêu chuẩn, tiêu chí rõ ràng nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của phát triển kinh tế tới chất lượng môi trường. Không được hạ thấp tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường để thu hút đầu tư dài hạn cho khu kinh tế mới. Trái lại, các giải pháp về thu thập, xử lý chất thải công nghiệp lẫn sinh hoạt, sử dụng vật liệu thân thiện môi trường và năng lượng tái tạo mới là những chính sách ưu đãi quan trọng đối với phát triển bền vững của khu kinh tế cửa khẩu. Cần phải thực hiện nghiêm quy chế về bảo vệ môi trường tại các khu kinh tế cửa khẩu. Ở trình độ cao hơn, các khu kinh tế cửa khẩu hoàn toàn có thể trở thành một công cụ để giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế - xã hội tới môi trường như sử dụng năng lượng tái tạo, sử dụng năng lượng hiệu quả, áp dụng công nghệ thân thiện môi trường, xây dựng kết cấu hạ tầng bảo vệ môi trường.../.