Tìm kiếm

Chủ Nhật, 28 tháng 1, 2024

TĂNG CƯỜNG TUẦN TRA, XỬ LÝ NGƯỜI NƯỚC NGOÀI VI PHẠM TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG


Dịp Tết nguyên đán đến gần, TP Hội An (Quảng Nam) cũng là một trong những điểm thu hút lượng khách du lịch là người nước ngoài đến tham quan, du lịch. Đây cũng là nơi có người nước ngoài sinh sống, làm việc đông nhất của tỉnh Quảng Nam.


Có một thực trạng gần đây rất đáng quan ngại, đó là tình trạng người nước ngoài vi phạm nồng độ cồn, thuê xe môtô, xe gắn máy để du lịch không đủ điều kiện an toàn lại chiếm tỉ lệ cao, tiềm ẩn mất trật tự an toàn giao thông (TTATGT).


  Công an TP Hội An tăng cường tuần tra           kiểm soát, xử lý người nước ngoài vi        phạm trật tự an toàn giao thông. Ảnh CA Hội An.


Trước tình hình đó, lãnh đạo Công an TP Hội An đã chỉ đạo lực lượng CSGT Công an thành phố  triển khai nhiều biện pháp, trong đó đã tăng cường tuần tra, kiểm soát xử lý người nước ngoài điều khiển xe môtô, xe gắn máy vi phạm TTATGT, đặc biệt là vi phạm nồng độ cồn. Đồng thời, đã yêu cầu các chủ phương tiện, chủ khách sạn, lưu trú, điểm cho thuê xe môtô, xe gắn máy và các cá nhân người nước ngoài trên địa bàn thành phố chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về tham gia giao thông, góp phần kiềm chế tai nạn giao thông, xây dựng văn hoá giao thông an toàn.


Qua đó, Công an TP Hội An đã phát hiện, lập biên bản 46 trường hợp người nước ngoài vi phạm  các lỗi như không đội mũ bảo hiểm; chở quá số người quy định; vượt đèn tín hiệu giao thông; đi vào đường cấm... Đáng lưu ý, có 19 trường hợp các chủ, điểm cho người nước ngoài thuê xe không đủ điều kiện an toàn.


Theo một cán bộ Công an TP Hội An, du khách người nước ngoài thuê xe máy để tham quan du lịch phố cổ đã không còn là hình ảnh lạ. Không chỉ thuê, mượn xe gắn máy, người nước ngoài cũng tự mua xe gắn máy, môtô để đi lại, phục vụ làm việc và nhu cầu tham quan du lịch. Tuy nhiên, điều này cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ do có không ít trường hợp người nước ngoài, du khách thuê xe máy lại vi phạm các quy định liên quan đến an toàn giao thông.


Lường những phức tạp nảy sinh, Công an TP Hội An đã triển khai kế hoạch tuần tra, kiểm soát và xử lý chuyên đề người nước ngoài điều khiển môtô, xe gắn máy vi phạm trật tự, an toàn giao thông nhằm kiềm giảm TNGT.


Thực hiện kế hoạch xử lý, thời gian qua, Công an TP Hội An đã chủ động ban hành văn bản hướng dẫn việc quản lý hoạt động người nước ngoài điều khiển phương tiện tham gia giao thông trên địa bàn thành phố cho Công an các xã, phường. Tập trung vào những quy định tại điều 58 của Luật Giao thông đường bộ năm 2008 và nội dung giấy phép lái xe quốc tế do các nước tham gia Công ước về giao thông đường bộ năm 1968.


Công an thành phố cũng phối hợp với chính quyền 13 xã, phường trên địa bàn tổ chức tuyên truyền, quán triệt, cho các điểm, chủ phương tiện cam kết về việc cho người nước ngoài thuê, mượn phương tiện phải đảm bảo các điều kiện theo quy định. Đồng thời tổ chức nhiều lượt tuyên truyền lưu động về tình hình vi phạm trật tự an toàn giao thông của người nước ngoài trên khắp địa bàn thành phố.


Việc này không chỉ nhằm góp phần mang lại nét văn hóa tham gia giao thông trên địa bàn thành phố trong mắt bạn bè quốc tế, mà còn thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật Việt Nam, bảo đảm an toàn cho chính du khách và nhân dân, giảm thiểu tai nạn giao thông liên quan đến người nước ngoài và sau cùng là mang lại hình ảnh đẹp, nét văn hóa tham gia giao thông trên địa bàn phố cổ…


Hoài Thu

 


MINH CHỨNG SINH ĐỘNG PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI VỀ TRƯỜNG PHÁO NGOẠI GIAO "CÂY TRE VIỆT NAM"


Với mưu đồ chống phá, các thế lực thù địch, phản động đã cố tình đưa ra những luận điệu xuyên tạc, công kích đường lối, chính sách ngoại giao, phủ nhận những thành tựu trong công tác đối ngoại của Việt Nam.


Nhận diện âm mưu, thủ đoạn chống phá


Mới đây, sau  khi cuốn sách “Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được ra mắt bạn đọc thì một số tổ chức, cá nhân phản động lưu vong ở nước ngoài, các hãng truyền thông hải ngoại định kiến với Việt Nam đã tung ra những bài viết, hình ảnh, video trên các nền tảng mạng xã hội với nội dung sai trái.


Họ đưa ra luận điệu sai lệch rằng “cuốn sách là không cần thiết”, “trường phái ngoại giao cây tre là ngả nghiêng, không thực chất, không có lập trường, không rõ ràng”, “gió chiều nào theo chiều ấy”… Mục đích của các thế lực thù địch là xuyên tạc trường phái “ngoại giao cây tre”, thể hiện qua những vấn đề sau:


   Hội nghị ngoại giao lần thứ 32 xác định xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, vững mạnh…


Thứ nhất, xuyên tạc để tiến tới phủ nhận vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta cũng như vai trò quản lý xã hội của Nhà nước, đòi thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam; ca ngợi kiểu cách đối ngoại phương Tây để tạo “cơn sóng ngược” nhằm hướng lái nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, cho rằng như thế mới có đường lối đối ngoại đúng đắn.


Thứ hai, gieo rắc, kích động tư tưởng dân tộc cực đoan, tạo “ngòi nổ” để kích động tâm lý chống đối, phản kháng, gây chia rẽ, kỳ thị trong ngoại giao, đặc biệt gây sự hiểu nhầm đối với người dân trong đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước, gây mất ổn định xã hội, ảnh hưởng tiêu cực an ninh quốc gia, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.


Thứ ba, hạ bệ vị thế, uy tín nước ta trên trường quốc tế, tìm cách làm cho các đối tác của Việt Nam thiếu niềm tin, e ngại trong xúc tiến hợp tác kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; gây ra sự hiểu sai về đất nước, con người Việt Nam; tìm cách cô lập Việt Nam với thế giới.


Có thể thấy, âm mưu của các thế lực thù địch là rất nguy hiểm, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, nếu không tỉnh táo nhận diện và có cái nhìn khách quan, đúng đắn, đầy đủ về giá trị trường phái “ngoại giao cây tre”  thì rất dễ rơi vào cái bẫy của đối tượng xấu giăng ra, thậm chí dễ trở thành “quân tốt”, “con bài” trong các hoạt động chống phá của các hội nhóm phản động, cơ hội chính trị.


Cần hiểu đúng về trường phái “ngoại giao cây tre”


“Ngoại giao cây tre” là khái niệm được nhắc nhiều trong những năm gần đây. Đây là trường phái ngoại giao được đúc kết, hình tượng hóa đường lối đối ngoại mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang thực hiện, trong đó trường phái ngoại giao này được xây dựng trên phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.


Vậy cụm từ “ngoại giao cây tre” có từ bao giờ?


Vào tháng 8/2016, tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định trường phái ngoại giao độc đáo, mang đậm bản sắc cây tre Việt Nam. Đến tháng 12/2021, tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư tiếp tục nhấn mạnh: “Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đối ngoại, ngoại giao Việt Nam đã kế thừa và phát huy bản sắc, cội nguồn văn hóa và truyền thống dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, phát triển trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hình thành nên trường phái đối ngoại, ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo, mang đậm bản sắc cây tre Việt Nam. Đó là vừa kiên định về nguyên tắc, vừa uyển chuyển về sách lược; mềm mại, khôn khéo nhưng cũng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, can trường trước mọi khó khăn, thử thách, vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân; đoàn kết, nhân ái nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc”.


Qua đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phân tích, làm sâu sắc thêm cơ sở hình thành, đặc trưng về trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”.


Trên cương vị là người đứng đầu Đảng, với tư duy đối ngoại sâu sắc mang tầm chiến lược cao và thực tiễn trải nghiệm hoạt động ngoại giao phong phú, sinh động, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cho ra đời cuốn sách “Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam””.  Đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng ban Tổ chức Trung ương khẳng định, cuốn sách của Tổng Bí thư là kim chỉ nam cho đường lối, chủ trương của Đảng về công tác đối ngoại; đóng góp to lớn, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận và cơ sở thực tiễn về xây dựng CNXH và con đường đi lên CNXH của Việt Nam.


Đồng chí Lê Hoài Trung, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương đánh giá, cuốn sách có giá trị vô cùng to lớn bởi đây là công trình đầu tiên mang tính hệ thống, tập hợp những phát biểu, bài viết của Tổng Bí thư về lĩnh vực đối ngoại, ngoại giao. Các bài viết thể hiện một cách cụ thể, sâu sắc và sinh động sự đóng góp to lớn, quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư trên nhiều cương vị khác nhau trước đây và với cương vị là lãnh đạo cao nhất của Đảng ta hiện nay trong việc xây dựng và phát triển đường lối đối ngoại của Việt Nam; đồng thời, khẳng định sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, toàn diện, xuyên suốt của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với công tác đối ngoại trên cả ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.


Bàn về những thành tựu đối ngoại và những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đồng chí Thongsavanh Phomvihane, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khẳng định: “Những thành tựu của Việt Nam nói chung, những thành tựu trong công tác đối ngoại nói riêng cũng chính là những thành tựu, là bài học kinh nghiệm quý báu cho đất nước Lào… Đặc biệt, Đảng, Nhà nước Lào đánh giá cao ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong việc nhấn mạnh 6 nhóm vấn đề là mục tiêu, nhiệm vụ to lớn, nặng nề nhưng đầy vẻ vang trong việc triển khai thực hiện đường lối đối ngoại của Việt Nam”.


Trong bài viết “Giá trị thời đại của trường phái ngoại giao mang bản sắc “cây tre Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng”, đồng chí Hàn Phương Minh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Chính hiệp toàn quốc Trung Quốc, Chủ tịch Học hội ngoại giao và quan hệ quốc tế CHARHAR đã chia sẻ cảm xúc: “Ngoại giao “cây tre Việt Nam” là vừa kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vừa tích cực mở rộng trong lĩnh vực ngoại giao, bảo vệ và phát triển lợi ích quốc gia của Việt Nam, kết hợp nhuần nhuyễn tính linh hoạt và tính nguyên tắc, nỗ lực thích ứng với thế giới không ngừng biến đổi; mặt khác, cùng với việc phát triển các quan hệ ngoại giao hiện có, thiết lập các quan hệ hợp tác mới. Đây chính là nền tảng ngoại giao để Việt Nam vẫn phát triển ổn định, lành mạnh dù đứng trước tình hình thế giới vô cùng phức tạp”.


Còn rất nhiều chính khách, học giả, nhà nghiên cứu thế giới đánh giá cao đường lối, chính sách đối ngoại, ngoại giao của Đảng, Nhà nước ta, ghi nhận những cống hiến to lớn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong quá trình phát triển đất nước, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.


Trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” mang lại giá trị gì?


Các hoạt động đối ngoại theo trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” đã góp phần củng cố vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; phục vụ đắc lực, hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, tăng cường sức mạnh dân tộc, góp phần xây dựng một thế giới hòa bình, hợp tác. Qua trường phái ngoại giao ấy, từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII của Đảng đến nay, Việt Nam tiếp tục mở rộng, làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, trọng tâm là các nước láng giềng, đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống.


Chỉ tính trong năm 2023, chúng ta đã tổ chức thành công 22 chuyến thăm của lãnh đạo chủ chốt tới các nước láng giềng, các đối tác quan trọng, bạn bè truyền thống và 28 chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao các nước đến Việt Nam cùng với hàng trăm cuộc gặp cấp cao tại các diễn đàn, hội nghị đa phương; trong đó, có những chuyến thăm có ý nghĩa lịch sử như chuyến thăm Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Mỹ Joe Biden...


Thành công của các chuyến thăm, hoạt động đối ngoại này đã tạo nên bước phát triển mới về chất trong đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta. Đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia, trong đó có 6 nước đối tác chiến lược toàn diện, 12 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện. Trên phương diện kinh tế, thông qua ngoại giao “cây tre Việt Nam”, năm 2023 đã góp quan trọng vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xuất nhập khẩu đạt trên 680 tỷ USD, thu hút FDI đạt 36,6 tỷ USD, tăng 32,8%, nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới đã cam kết đầu tư dài hạn ở Việt Nam…


Khẳng định thành tựu do “ngoại giao cây tre” mang lại, tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32 ngày 19/12/2023, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định, công tác đối ngoại đã “đạt được nhiều kết quả, thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, trở thành một điểm sáng đầy ấn tượng trong toàn bộ những kết quả, thành tựu chung của đất nước”.


Trước một thế giới với vô vàn sự chia rẽ, xung đột, Việt Nam đang dần khẳng định vị thế, uy tín đối với bạn bè quốc tế, là biểu tượng của hòa bình, độc lập, tự chủ, thân thiện, hiếu khách, nơi các đối tác đặt niềm tin cho những mối quan hệ tốt đẹp. Những đóng góp của trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” đã được chứng minh, khẳng định giá trị trên thực tế. Đây là minh chứng sinh động góp phần bác bỏ những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, phản động về đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam.



Đại Thắng – Trịnh Thúy


XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG, AN NINH THEO HƯỚNG LƯỠNG DỤNG, HIỆN ĐẠI


Chiều 26/1, tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội đã tổ chức Tọa đàm về “Phát triển công nghiệp lưỡng dụng, lĩnh vực lưỡng dụng và các chính sách đặc thù huy động, thu hút nguồn lực xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng và an ninh”.


Phối hợp thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp

Hoạt động này nhằm có thêm cơ sở lý luận chính trị, pháp lý, khoa học và thực tiễn vững chắc để Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh hoàn thiện dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp (CNQPAN và ĐVCN), báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp thứ 30 (tháng 2/2024); đồng thời cung cấp thông tin cho các vị đại biểu Quốc hội (ĐBQH) trong quá trình cho ý kiến về dự án Luật quan trọng này.

            Quang cảnh buổi tọa đàm.


Thượng tướng Trần Quang Phương, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội, chủ trì tọa đàm. Tham dự buổi tọa đàm có các Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội: Trung tướng Nguyễn Hải Hưng, Trung tướng Trần Ngọc Khánh, Trung tướng Nguyễn Minh Đức, Trung tướng Đỗ Quang Thành; đại diện Quân chủng Hải quân, Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu 7, lãnh đạo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu… cùng các chuyên gia, nhà khoa học.


Thượng tướng Trần Quang Phương, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội, phát biểu tại tọa đàm.


Phát biểu tại tọa đàm, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương nhấn mạnh, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Xây dựng, phát triển nền CNQP hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội”. Việc xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng an ninh theo hướng lưỡng dụng, hiện đại, trở thành mũi nhọn công nghiệp quốc gia; kết hợp chặt chẽ quốc phòng an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng an ninh là định hướng quan trọng, có ý nghĩa chiến lược của Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.  


Phó Chủ tịch Quốc hội cho biết, nội dung về phát triển CNQPAN lưỡng dụng và việc huy động nguồn lực xây dựng, phát triển CNQPAN được ĐBQH quan tâm và cho nhiều ý kiến; đề nghị Ban soạn thảo quy định cụ thể về phát triển CNQPAN kết hợp với công nghiệp dân sinh theo hướng lưỡng dụng, sản phẩm lưỡng dụng sử dụng cho cả QPAN và dân sinh.  



      Một số đại biểu thảo luận tại tọa đàm.


Ban soạn thoạn cần nghiên cứu, bổ sung quy định cụ thể về tính lưỡng dụng của CNQPAN, làm rõ khái niệm, nội hàm của tính lưỡng dụng trong xây dựng CNQP và công nghiệp quốc gia, tính toán khả năng đảm bảo trong cả thời bình và thời chiến…


Thảo luận tại tọa đàm, các đại biểu cho rằng, để phát huy tính lưỡng dụng, tăng cường và phát triển liên kết giữa CNQPAN với công nghiệp dân sinh; huy động tối đa thành tựu của nền công nghiệp quốc gia phục vụ CNQPAN cần được triển khai theo cả hai hướng. Hướng thứ nhất là lưỡng dụng trong các cơ sở CNQP nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh để phát huy hiệu quả đầu tư thông qua việc sản xuất kinh tế phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và duy trì năng lực trong thời bình. Hướng thứ hai là lưỡng dụng trong công nghiệp dân sinh để huy động phục vụ CNQPAN.


Các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đại diện các doanh nghiệp đã thảo luận, làm rõ tính khả thi của các quy định dự kiến tiếp thu, chỉnh lý trong dự thảo Luật về phạm vi, điều kiện, thủ tục để thực hiện cơ chế lưỡng dụng, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp; việc huy động nguồn lực xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng an ninh; quyền và nghĩa vụ; chế độ, chính sách… tính khả thi, phù hợp của các quy định này.


Sáng cùng ngày 26/1, tại Bà Rịa-Vũng Tàu, Thượng tướng Trần Quang Phương, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội, cùng Đoàn công tác của Ủy ban Quốc phòng và An ninh và lãnh đạo tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã khảo sát thực tế tại Tổng công ty Ba Son nhằm phục vụ xây dựng Luật CNQPAN và ĐVCN.



Phú Lữ - Trường Nhật

 

QUY ĐỊNH MỚI VỀ NHIỆM VỤ CỦA LỰC LƯỢNG THAM GIA BẢO VỆ AN NINH, TRẬT TỰ Ở CƠ SỞ

 

 Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở có hiệu lực từ ngày 01/7/2024, trong đó quy định về nhiệm vụ của lực lượng này.


Quy định mới về nhiệm vụ của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở

I. Nhiệm vụ hỗ trợ nắm tình hình về an ninh, trật tự

Theo Điều 7, nhiệm vụ hỗ trợ nắm tình hình về an ninh, trật tự của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở được quy định như sau:


1. Hỗ trợ Công an cấp xã nắm tình hình vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình trên địa bàn phụ trách thông qua nguồn tin của Nhân dân, phương tiện thông tin đại chúng theo hướng dẫn của Công an cấp xã.


2. Khi phát hiện, tiếp nhận thông tin vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình trên địa bàn phụ trách phải báo ngay cho Công an cấp xã; có mặt tại nơi xảy ra vụ việc để thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu, hướng dẫn của Công an cấp xã; kịp thời ngăn chặn hành vi xâm phạm, đe dọa xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản của cá nhân, tài sản của cơ quan, tổ chức trong điều kiện, khả năng cho phép và theo quy định của pháp luật.


II. Nhiệm vụ hỗ trợ xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc

Theo Điều 8, nhiệm vụ hỗ trợ xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở được quy định như sau:


1. Hỗ trợ Công an cấp xã tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về an ninh, trật tự vàxây dựng, nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.


2. Vận động Nhân dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự.


III. Nhiệm vụ hỗ trợ phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ

Theo Điều 9, lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở theo yêu cầu, hướng dẫn, phân công của Công an cấp xã hỗ trợ lực lượng dân phòng trong hoạt động phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ trên địa bàn phụ trách hoặc địa bàn khác khi được điều động.


IV. Nhiệm vụ hỗ trợ quản lý hành chính về trật tự xã hội

Theo Điều 10, nhiệm vụ hỗ trợ quản lý hành chính về trật tự xã hội của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở được quy định như sau:


1. Hỗ trợ Công an cấp xã nắm thông tin vềhoạt động của cơ sở kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự trên địa bàn phụ trách, trường hợp trực tiếp phát hiện hoặc tiếp nhận thông tin vi phạm pháp luật phải báo ngay cho Công an cấp xã trực tiếp quản lý.


2. Nắm thông tin nhân khẩu,hỗ trợ Công an cấp xã kiểm tra nhân khẩu, tạm trú, tạm vắng trên địa bàn phụ trách.


3. Tuyên truyền, vận động cơ quan, tổ chức và Nhân dân trên địa bàn phụ trách khai báo, giao nộp pháo, vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ theo quy định.


4. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này mà phát hiện hành vi vi phạm pháp luật phải báo ngay cho Công an cấp xã trực tiếp quản lý và hỗ trợ Công an cấp xã kịp thời ngăn chặn.


V. Nhiệm vụ hỗ trợ vận động, giáo dục người đã có hành vi vi phạm pháp luật đang cư trú tại cơ sở

Theo Điều 11, lực lượng tham gia bảo vệ an ninh trật tự ở cơ sở có nhiệm vụ hỗ trợ Công an cấp xã vận động, giáo dục những người sau đây đang sinh sống trên địa bàn phụ trách chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước:


1. Người đã chấp hành xong án phạt tù; người sử dụng trái phép chất ma túy, người cai nghiện ma tuý tự nguyện tại gia đình, cộng đồng; người đã chấp hành xong quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; người được tha tù trước thời hạn có điều kiện;


2. Người bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú;người được bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm; người bị kết án phạt tù nhưng chưa có quyết định thi hành án hoặc đã có quyết định thi hành án nhưng đang tại ngoại hoặc được hoãn chấp hành án, tạm đình chỉ chấp hành án; người bị kết án phạt tù được hưởng án treo đang trong thời gian thử thách; người đang chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân, quản chế; người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đang trong thời gian thử thách; người đã chấp hành xong bản án của Toà án chưa được xóa án tích;


3. Người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, quản lý tại gia đình; người phải chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng nhưng đang được hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp hành quyết định; người bị quản lý trong thời gian làm thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng; người có hành vi bạo lực gia đình.


VI. Nhiệm vụ hỗ trợ tuần tra bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn giao thông; thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự khi được điều động

Theo Điều 12, lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở có nhiệm vụ hỗ trợ tuần tra bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn giao thông; thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự khi được điều động, cụ thể như sau:


1. Hỗ trợ Công an cấp xã tuần tra, phòng ngừa, phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự trên địa bàn phụ trách.


2. Hỗ trợ Công an cấp xã hướng dẫn, phân luồng, giải quyết ùn tắc giao thông khi được huy động.


3. Khi thực hiện nhiệm vụ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà phát hiện vụ việc liên quan đến an ninh, trật tự, lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở hỗ trợ hoặc theo hướng dẫn của Công an cấp xã, lực lượng chức năng bảo vệ hiện trường, bảo vệ an ninh, trật tự.


4. Trường hợp xảy ra tình huống phức tạp về an ninh, trật tự ngoài địa bàn phụ trách, lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở có thể được cấp có thẩm quyền điều động để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Việc sử dụng lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở trong trường hợp điều động được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan./.


Thanh Loan

Thứ Bảy, 27 tháng 1, 2024

NHẬN THỨC, TRÁCH NHIỆM VỀ CHÍNH TRỊ NỘI BỘ NGÀY CÀNG ĐƯỢC NÂNG CAO

 


Chiều 26-1, tại Hà Nội, Tiểu ban Bảo vệ chính trị nội bộ Trung ương tổ chức cuộc họp tổng kết công tác năm 2023, với sự chủ trì của đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Trưởng tiểu ban Bảo vệ chính trị nội bộ Trung ương. Tham dự cuộc họp có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Trung ương Đảng là thành viên Tiểu ban.


Các thành viên Tiểu ban Bảo vệ chính trị nội bộ Trung ương thảo luận, thống nhất đánh giá tình hình, kết quả công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng năm 2023; phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm, chương trình, kế hoạch công tác năm 2024 và một số nội dung quan trọng khác liên quan đến công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng. Theo đó, năm 2023, các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng. Qua kiểm tra của lãnh đạo Tiểu ban tại 11 cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương cho thấy, nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu, cơ quan tham mưu, phối hợp bảo vệ chính trị nội bộ ngày càng được nâng cao; các nhiệm vụ được thực hiện khá đồng bộ, đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào công tác xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.


Kết luận tại cuộc họp, đồng chí Trương Thị Mai yêu cầu Tổ giúp việc và Cục Bảo vệ chính trị nội bộ tiếp thu các ý kiến, hoàn thiện những văn bản, tham mưu lãnh đạo Tiểu ban báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư và thông báo đến các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương để triển khai, thực hiện trong thời gian tới./.


Bảo Quyên

CÁNH CỬA ĐẾN HOÀ BÌNH VÀ BÀI HỌC BẢO VỆ TỔ QUỐC TỪ SỚM, TỪ XA

 

.                   Ảnh tư liệu: Hiệp định Paris


Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam vẫn vẹn nguyên giá trị với những bài học kinh nghiệm sâu sắc, quý giá.


Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam là những cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ với giặc ngoại xâm hùng mạnh để giành lại, giữ vững nền độc lập, hòa bình, tự do và sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.


Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là một điển hình về sự nghiệp đấu tranh ấy. Và Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam được ký kết ngày 27/1/1973 tại Thủ đô nước Pháp chính là kết quả thắng lợi của một trong những cuộc đàm phán khó khăn, lâu dài nhất trong lịch sử ngoại giao thế giới.


Trong căn nhà riêng ấm cúng tại khu tập thể Thành Công, Hà Nội, Nhà ngoại giao Phạm Ngạc, năm nay đã gần 90 tuổi nhưng vẫn nhanh nhẹn, minh mẫn.


Chia sẻ tường tận những câu chuyện chung quanh hoạt động đàm phán tại Paris cách đây hơn nửa thế kỷ, ông Phạm Ngạc nhớ lại: "Tôi là người trẻ tuổi nhất trong phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa."


Nhắc tới những kỷ niệm không thể nào quên về quãng thời gian ấy, ông Phạm Ngạc kể, cuộc đàm phán ở Hội nghị Paris diễn ra đầy cam go, phức tạp, kéo dài gần 5 năm, từ 13/5/1968 đến 27/1/1973, với 202 phiên công khai, 36 phiên gặp riêng bí mật, với 500 cuộc họp báo và 1.000 cuộc phỏng vấn, đàm phán."Đoàn đàm phán của Mỹ có thể thông tin về nước rất nhanh. Họ có thể đàm phán nửa chừng rồi ra ôtô là có thể gọi về nước xin ý kiến. Trong khi đó, chúng ta phải mã hóa gửi về và nếu muốn về nước xin thêm chỉ thị, đồng chí Lê Đức Thọ phải mất nhiều ngày để di chuyển về Việt Nam.


Có lần cuộc đàm phán kéo dài đến 3 giờ sáng, ngay sau đó đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải lên máy bay về nước để báo cáo, mang theo biên bản cuộc họp," ông Phạm Ngạc kể lại.


"Vượt qua mọi khó khăn, các thành viên trong đoàn đàm phán luôn giữ vững tinh thần chiến đấu để hoàn thành nhiệm vụ được giao," ông Phạm Ngạc xúc động nói.


Trong trí nhớ của ông Phạm Ngạc, cuối cùng, đúng 12 giờ 30 phút (giờ Paris) ngày 22/1/1973, tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế Clêbe, Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và cố vấn Henry Kissinger ký tắt.


Ngày 27/1/1973, Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký chính thức.Đây là văn kiện pháp lý quốc tế khẳng định thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, với những điều khoản quan trọng, đó là: Hoa Kỳ cùng các nước khác cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; quân đội Hoa Kỳ và các nước đồng minh rút khỏi Việt Nam.


Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình thông qua Tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ; việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình...


Nhắc đến cảm xúc hạnh phúc khi Hiệp định Paris được ký kết, ông Phạm Ngạc lại nhớ giây phút ngày 27/1/1973, Phái đoàn Việt Nam bước ra cửa. Rợp trời là cờ đỏ sao vàng và cờ của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.


Bạn bè quốc tế tụ họp rất đông chúc mừng hai đoàn Việt Nam, chia sẻ với ta niềm vui này, coi đây là thắng lợi chung của chính nghĩa."Để đạt được lợi ích dân tộc là cuộc đấu tranh ngoại giao cam go nhất, lâu dài nhất trong lịch sử nền ngoại giao cách mạng Việt Nam. Là xương máu của người Việt Nam thấm ướt khắp hai miền Nam-Bắc cho khát vọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Hiệp định Paris được ký kết đã tạo ra cục diện có lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chiến tranh sẽ chấm dứt. Đất nước sẽ bước vào kỷ nguyên thống nhất, hòa bình, thịnh vượng", ông Phạm Ngạc xúc động nhớ lại.


Đánh giá về tầm vóc, ý nghĩa lịch sử của Hiệp định Paris đối với tiến trình cách mạng Việt Nam, Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương cũng khẳng định, từ điểm tựa chiến lược của Hiệp định Paris, quân và dân ta đã tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.


Hiệp định Paris đã tạo ra điều kiện và môi trường để Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, chính nghĩa và thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam.Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam vẫn vẹn nguyên giá trị với những bài học kinh nghiệm sâu sắc, quý giá.


Trước những diễn biến phức tạp, khó dự báo của bối cảnh quốc tế hiện nay, Hiệp định Paris cho thấy bài học về sự phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động ngoại giao với đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội, gắn với đảm bảo quốc phòng-an ninh của đất nước; kết hợp chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước với ngoại giao nhân dân; tạo sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước nhanh, bền vững.Hiệp định Paris còn là bài học về quán triệt sâu sắc tư tưởng "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh.


Kế thừa và phát huy bài học quan trọng đó, trong sự nghiệp đổi mới, chúng ta đã đề ra chủ trương coi phát huy nội lực là yếu tố quyết định, ngoại lực là yếu tố quan trọng; xử lý đúng đắn, hài hòa giữa độc lập, tự chủ và đoàn kết, hợp tác quốc tế, giữa lợi ích quốc gia dân tộc và trách nhiệm quốc tế; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, văn hóa; ngoại giao Nhà nước, ngoại giao nhân dân; đảm bảo giữa đa phương và song phương,... tỉnh táo, ứng phó chủ động và kịp thời trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới.


Đặc biệt, Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Thắng đề cao bài học về giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong toàn bộ quá trình đấu tranh trên mặt trận ngoại giao.


Càng trong quá trình hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, chúng ta càng cần tăng cường và giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đối ngoại và hoạt động ngoại giao để thực hiện thành công, nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại... Việt Nam là bạn, là đối tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế./.


Thảo Trang

ĐẨY MẠNH TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG TRƯỜNG HỌC 

 

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) trong nhà trường là một phần của chương trình giáo dục các cấp học. Trên cơ sở xác định được ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác này trong việc góp phần nâng cao nhận thức, ý thức của cán bộ, giáo viên và các em học sinh nghiêm chỉnh chấp hành và thực hiện tốt các quy định của pháp luật, những năm qua, ngành Giáo dục đã chỉ đạo các trường học, các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh triển khai có hiệu quả Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường”.


Để nâng cao chất lượng giảng dạy, tuyên truyền PBGDPL trong trường học, ngành Giáo dục đã thường xuyên rà soát, kiện toàn lại đội ngũ làm công tác PBGDPL và giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công dân bảo đảm đúng với trình độ, năng lực chuyên môn. Theo kế hoạch từng năm học, đội ngũ giáo viên, trong đó chủ yếu là giáo viên dạy môn Giáo dục công dân được tham dự nhiều lớp tập huấn nâng cao kỹ năng, kiến thức pháp luật phục vụ tốt hơn cho việc giảng dạy. Bên cạnh đó, ngành cũng phối hợp chặt chẽ với Sở Tư pháp tổ chức các lớp tập huấn theo từng năm học dành cho giáo viên, giúp đội ngũ giáo viên được tiếp cận, cập nhật nhiều văn bản pháp luật mới và được cung cấp các kỹ năng phục vụ công tác tuyên truyền, PBGDPL trong trường học như: tuyên truyền miệng, cách thức viết tin, bài, tổ chức cuộc thi tìm hiểu pháp luật... Đồng thời, phối hợp với UBND các huyện, thành phố, Ban An toàn giao thông tỉnh, Công an tỉnh thường xuyên tổ chức các buổi tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho học sinh các nhà trường. Thống kê cho thấy, thông qua sự phối hợp từ nhiều phía, mỗi năm học, cấp học đã tổ chức được hàng chục buổi tuyên truyền PBGDPL, thi sân khấu, đối thoại, thi làm báo tường… tìm hiểu về Luật Giao thông đường bộ và các quy định của Bộ luật Hình sự, thu hút đông đảo học sinh các cấp tham gia.


Về phía các nhà trường, cùng với việc tích cực, chủ động thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy các môn học, việc tuyên truyền, PBGDPL đã xác định rõ được cách thức PBGDPL phù hợp với học sinh từng cấp học. Cô giáo Nguyễn Thị Minh Thu, Hiệu trưởng Trường THPT B Phủ Lý cho biết: Những năm qua, công tác tuyên truyền, PBGDPL cho học sinh được nhà trường thực hiện tương đối tốt. Căn cứ theo chương trình giáo dục pháp luật chung cho học sinh, nhà trường đã bố trí, phân công giáo viên dạy môn Giáo dục công dân, Giáo dục kinh tế và pháp luật bảo đảm lên lớp đủ tiết, linh hoạt, sáng tạo trong cách giảng dạy để các kiến thức pháp luật trở nên gần gũi, dễ hiểu, dễ nhớ với học sinh. Bên cạnh đó, nhà trường còn chủ động phối hợp với các ngành chức năng tổ chức được các buổi sinh hoạt ngoại khóa, nói chuyện chuyên đề, lồng ghép giáo dục các kiến thức pháp luật, an toàn giao thông với nhiều hình ảnh trực quan, đưa ra các tình huống để học sinh phân biệt được đúng - sai và có kỹ năng phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật, phòng tránh tai nạn giao thông…


Được biết, thời gian qua, các nhà trường cũng tăng cường dạy học tích hợp giáo dục pháp luật trong chương trình chính khóa, chương trình ngoại khóa, các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, quan tâm xây dựng thư viện, tủ sách pháp luật trường học, bổ sung tài liệu, thiết bị phục vụ công tác PBGDPL. Ngoài chương trình sách giáo khoa do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định, ngành Giáo dục còn phối hợp với Sở Tư pháp in hàng chục nghìn bộ tài liệu, tờ rơi, tờ gấp về: Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Luật Phòng, chống m.a t.úy; Luật Giao thông đường bộ, Luật Nghĩa vụ quân sự... cấp phát cho các trường. Em Nguyễn Thị Thúy, học viên Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên Bình Lục cho biết: Theo em, các buổi tuyên truyền, PBGDPL bằng hoạt động ngoại khóa được tổ chức trong nhà trường đã mang lại hiệu quả rất tích cực. Khi được tham gia trực tiếp trong các hoạt động đó, chúng em được trang bị nhiều kiến thức pháp luật bổ ích, giúp nâng cao nhận thức, hiểu biết về pháp luật và có được những kỹ năng tốt trong ứng xử hằng ngày.


Hơn thế, các nhà trường, cấp học đã linh hoạt, sáng tạo tổ chức hội thi tìm hiểu về pháp luật. Tại các hội thi, từ phần chào hỏi cho đến các phần thi trắc nghiệm, thi nhận thức, thi tiểu phẩm, học sinh là thành viên các đội thi đều có sự am hiểu tương đối tốt các kiến thức về pháp luật liên quan tới nội dung thi, có sự thể hiện tốt kỹ năng ứng xử với các tình huống xoay quanh các vấn đề về việc chấp hành các quy định của pháp luật, nhất là về chấp hành an toàn giao thông đường bộ và phòng, chống b.ạo l.ực học đường. Với những nội dung thiết thực, hội thi đã tạo sân chơi lành mạnh cho các em học sinh, góp phần nâng cao nhận thức và ý thức tự giác chấp hành pháp luật nói chung, pháp luật về giao thông và phòng ngừa b.ạo l.ực học đường nói riêng. Riêng với cấp tiểu học, việc tổ chức các hội thi, giao lưu về an toàn giao thông (ATGT) đã giúp bổ sung, củng cố kiến thức ATGT, phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập, tìm hiểu Luật Giao thông đường bộ cho học sinh tiểu học. Đồng thời, hình thành một số kĩ năng cơ bản về ATGT, giúp học sinh vận dụng hiểu biết khi tham gia giao thông; góp phần tích cực trong việc nâng cao kỹ năng tổ chức các hoạt động giảng dạy về ATGT đối với đội ngũ giáo viên các trường tiểu học trên địa bàn tỉnh, nhất là khi tham gia thực hiện nội dung Thực hành dạy một hoạt động về giáo dục ATGT cho học sinh từ lớp 2 đến lớp 5 theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học và sử dụng có hiệu quả đồ dùng thiết bị dạy học. Bên cạnh việc khai thác và tổ chức tốt các tiết thực hành theo nội dung dạy học ATGT dành cho học sinh tiểu học, các giáo viên còn có thêm cơ hội được trình bày các biện pháp giáo dục cá nhân về đổi mới phương pháp giáo dục ATGT trong trường tiểu học, đáp ứng tốt yêu cầu dạy học và giáo dục ATGT cho học sinh tiểu học.


Trên thực tế, công tác tuyên truyền, PBGDPL đã có tác động lớn trong việc giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, sự hiểu biết pháp luật và ý thức trách nhiệm của cán bộ, giáo viên và học sinh, hạn chế các vi phạm pháp luật trong nhà trường. Phần lớn học sinh đã biết sống trách nhiệm hơn với bản thân, gia đình, có quan tâm hơn đối với những vấn đề bức xúc trong xã hội, như: bảo vệ môi trường, phòng chống m.a t.úy, tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh trật tự... Để nâng cao hơn mức hiệu quả tuyên truyền, PBGDPL vào đầu mỗi năm học, các trường học còn phối hợp với hội cha mẹ học sinh, các đoàn thể, cơ quan công an địa phương tổ chức cho cán bộ, giáo viên, học sinh trong nhà trường ký cam kết không vi phạm pháp luật, làm căn cứ để đánh giá thi đua và xếp loại hạnh kiểm cuối năm./.


Hà Nam

Thứ Năm, 25 tháng 1, 2024

VÌ QUỐC KẾ DÂN SINH!

 

Những nội dung được Quốc hội quyết định tại Kỳ họp bất thường lần thứ 5 có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của năm 2024 và cả nhiệm kỳ mà còn có ý nghĩa căn cơ, chiến lược, lâu dài, là minh chứng cho tinh thần lập pháp vì dân.


Những ngày đầu năm mới 2024, Kỳ họp bất thường lần thứ 5 đã diễn ra. Quốc hội đã xem xét, quyết định 4 nội dung quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết của thực tiễn. “Những nội dung được quyết định tại Kỳ họp này có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của năm 2024 và cả nhiệm kỳ mà còn có ý nghĩa căn cơ, chiến lược, lâu dài” - Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã nhấn mạnh trong phiên khai mạc Kỳ họp bất thường lần thứ 5.


Đầu tiên phải kể đến việc Quốc hội đã bấm nút thông qua Luật Đất đai (sửa đổi), hoàn thành một trong những nhiệm vụ lập pháp quan trọng hàng đầu của nhiệm kỳ Quốc hội khoá XV.


Dự án Luật đã được Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Chính phủ và các cơ quan, tổ chức hữu quan chuẩn bị rất trách nhiệm, kỹ lưỡng, công phu qua nhiều vòng, nhiều bước. Dự án Luật này cũng đã được trình Quốc hội tại 04 kỳ họp, 02 Hội nghị ĐBQH hoạt động chuyên trách, 08 phiên họp chính thức của UBTVQH (trong đó có 01 phiên cho ý kiến về Kế hoạch lấy ý kiến Nhân dân) và được chỉnh lý, tiếp thu ý kiến của các cơ quan, tổ chức, chuyên gia, nhà khoa học, đối tượng chịu sự tác động và trên 12 triệu lượt ý kiến của Nhân dân. Quốc hội xem xét dự thảo Luật tại Kỳ họp bất thường thứ 5 theo quy trình đặc biệt và tất cả ý kiến ĐBQH đã được tiếp thu, giải trình. Điều đó cho thấy tinh thần cẩn trọng của Quốc hội và các cơ quan trong hoạt động lập pháp, luôn đề cao chất lượng và hiệu quả.


Luật được thông qua gồm 16 chương và 260 điều; đã quán triệt đầy đủ và thể chế hóa các quan điểm, nội dung của Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, phù hợp với Hiến pháp, đồng bộ với với hệ thống pháp luật, đủ điều kiện để trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp này.


“Đây là thành quả của quá trình phối hợp chặt chẽ, chuẩn bị thận trọng, kỹ lưỡng, khoa học, từ sớm, từ xa, với nỗ lực và quyết tâm rất cao của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; huy động mọi nguồn lực với tinh thần thực sự cầu thị, lắng nghe, dân chủ; tranh thủ tối đa trí tuệ, đóng góp của các chuyên gia, các nhà khoa học, cộng đồng doanh nghiệp, cử tri và Nhân dân cả nước; là bài học kinh nghiệm quý về đổi mới tư duy, phương pháp làm việc, quyết liệt hành động để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác lập pháp cũng như các quyết sách khác của Quốc hội” - Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã nhấn mạnh trong phát biểu bế mạc kỳ họp.


Theo Chủ tịch Quốc hội, việc thông qua Luật Đất đai (sửa đổi) tại Kỳ họp này, cùng với Luật Nhà ở (sửa đổi), Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ 6 vừa qua và có hiệu lực đồng thời từ 01/01/2025 đã đáp ứng yêu cầu hoàn thiện đồng bộ chính sách, pháp luật về quản lý và sử dụng đất phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để nguồn lực đất đai được quản lý, khai thác, sử dụng tiết kiệm, bền vững, hiệu quả cao nhất; đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, công bằng và ổn định xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao.


Còn Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) là luật có nhiều nội dung chuyên môn, có tác động trực tiếp đến chính sách tài chính, tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô. Luật được thông qua gồm 15 chương, 210 điều, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, bảo đảm sự an toàn, lành mạnh, minh bạch, ổn định và bền vững của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng, phát triển theo đúng nguyên tắc thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các thông lệ, chuẩn mực quốc tế phổ biến, nâng cao khả năng cạnh tranh, tiếp tục phát huy vai trò là kênh dẫn vốn rất quan trọng của nền kinh tế.


Một trong những nội dung quan trọng khác của Kỳ họp bất thường lần thứ 5 là Quốc hội xem xét, ban hành Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia. Đây là bước tiếp nối kết quả giám sát tối cao về chuyên đề này của Quốc hội, khẳng định tinh thần trách nhiệm, đi đến cùng vấn đề giám sát.


Trước đó, tại Kỳ họp thứ 6, lần đầu tiên Quốc hội giám sát giữa nhiệm kỳ đồng thời 3 Chương trình mục tiêu quốc gia và ban hành Nghị quyết riêng về vấn đề này. Qua giám sát cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình triển khai thực hiện 3 chương trình còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Điển hình như, còn tình trạng cát cứ, phân tán, manh mún trong tổ chức thực hiện; việc thực hiện cơ chế lồng ghép, phân cấp, phân quyền, cơ chế đặc thù theo chủ trương của Đảng và Nhà nước chưa thực sự phát huy hiệu quả; thu hút nguồn lực xã hội hoá còn hạn chế… Chính vì vậy, việc ban hành Nghị quyết với 8 cơ chế, chính sách đặc thù được kỳ vọng sẽ góp phần tháo gỡ triệt để những vướng mắc trong thực hiện các Chương trình.


Cũng tại Kỳ họp bất thường này, Quốc hội xem xét, quyết định các vấn đề về tài chính, ngân sách, cho phép phân bổ, sử dụng gần 64.000 tỷ đồng cho các nhiệm vụ, dự án thuộc 05 lĩnh vực. Cùng với các dự án quan trọng quốc gia đã được Quốc hội quyết định đầu tư từ đầu nhiệm kỳ và Nghị quyết thí điểm một số chính sách đặc thù về đầu tư xây dựng công trình đường bộ đã được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 6 vừa qua, những vấn đề tài chính, ngân sách được Quốc hội quyết định tại Kỳ họp này là tiền đề quan trọng để đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện các dự án, công trình trọng điểm, thúc đẩy phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại, nhất là hệ thống đường cao tốc, đường ven biển, cảng hàng không, các dự án liên kết vùng, góp phần hoàn thành mục tiêu có hơn 3.000 km đường bộ cao tốc vào năm 2025.


Những kỳ họp “bất thường” đang trở thành hoạt động “bình thường” của Quốc hội. Tính từ đầu nhiệm kỳ đến nay, bên cạnh 6 kỳ họp thường lệ, Quốc hội đã tổ chức 5 kỳ họp bất thường xem xét, quyết định các vấn đề trọng đại của quốc gia trước đòi hỏi cấp bách của cuộc sống. Đây là minh chứng rõ nét cho một Quốc hội luôn đổi mới, hành động quyết liệt vì lợi ích của nhân dân./.


Biên Cương

ĐẤU TRANH PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC QUY ĐỊNH VỀ NHỮNG ĐIỀU ĐẢNG VIÊN KHÔNG ĐƯỢC LÀM

 

Sau khi Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quy định số 37-QĐ/TƯ ngày 25-10-2021 về những điều đảng viên không được làm, các đối tượng phản động, thù địch ra sức xuyên tạc, suy diễn, công kích chế độ, nhạo báng vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam. Kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái về những điều đảng viên không được làm là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng.


Một số trang mạng của cá nhân, tổ chức thù địch, phản động, hội đoàn chống cộng hải ngoại lu loa rằng, việc Đảng ban hành quy định những điều đảng viên không được làm là để “vá những lỗ thủng quá nhiều của chế độ”; điều đó cho thấy “Đảng đứng trên pháp luật, lấn át vai trò của pháp luật”. Những luận điệu xuyên tạc này còn được cổ xúy trên đài BBC, RFA, VOA… Chúng viện dẫn nhiều ý kiến vô căn cứ của những đối tượng có hiềm khích và tư tưởng chống đối Đảng, Nhà nước Việt Nam.


Chúng cho rằng: “Những quy định cấm đảng viên chỉ là chiêu bài chứ không có hiệu quả trong thực tế” hoặc các đối tượng suy diễn: “Đảng loay hoay, mò mẫm soạn ra các văn bản giấy tờ quy định cấm cho thêm rắc rối, chồng lấn pháp luật, vì những điều ấy pháp luật cũng cấm rồi, đảng viên cũng là công dân, thêm điều cấm là Đảng đứng trên, đứng ngoài pháp luật, vi phạm Hiến pháp”…


Trước hết, cần khẳng định những luận điệu trên là phản động, xảo trá, vu khống, hòng làm giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta. Đảng ta là đảng cầm quyền, trước yêu cầu mới ngày càng cao của công cuộc đổi mới, nếu Đảng không giữ vững bản chất cách mạng của mình, không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí và hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên. Vì vậy, xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh, chấn chỉnh lại đội ngũ đảng viên, siết chặt kỷ luật, kỷ cương của Đảng là việc làm cần thiết và hết sức bình thường của một chính đảng.


Thứ hai, xuất phát từ vai trò của đảng viên, công tác rèn luyện đảng viên phải được tiến hành thường xuyên “như đánh răng, rửa mặt hằng ngày”. Quy định số 37-QĐ/TƯ đã nêu rõ: “Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; cùng với việc gương mẫu chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế, quyết định của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, các quy định của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội mà mình là thành viên, phải chấp hành nghiêm những quy định của Đảng về những điều đảng viên không được làm”. Điều này có nghĩa rằng, đã là đảng viên, ngoài việc gương mẫu thực hiện các quy định của Đảng còn phải chịu những ràng buộc nhất định, để bảo đảm rằng mỗi đảng viên phải luôn thể hiện tinh thần hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.


Với mỗi đảng viên, việc thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện là việc làm “như đánh răng, rửa mặt hằng ngày”, đòi hỏi phẩm chất, tư cách đạo đức phải gương mẫu hơn người dân bình thường. Đảng viên, bên cạnh việc tuân thủ, thực hiện tốt nhiệm vụ đã được quy định trong Điều lệ và văn bản của Đảng, thì với vai trò là công dân cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật.


Do đó, Đảng ban hành các quy định là để thực hiện tốt hơn công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên chứ không phải là “dẫm chân” hay “chồng lấn” pháp luật.


Thứ ba, những điều đảng viên không được làm theo Quy định số 37-QĐ/TƯ là cần thiết, khoa học, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Cần thống nhất một số nhận thức: Khi ban hành những điều đảng viên không được làm có nghĩa rằng trên thực tế đã có những vi phạm, những hiện tượng chưa lành mạnh của một bộ phận đảng viên. Tức là Đảng đã nhìn nhận trong Đảng hình thành và tồn tại những loại hành vi không phù hợp, sai trái, vi phạm pháp luật, có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật hoặc chưa (khó) xử lý bằng luật pháp, do đó cần được xử lý bằng các quy định của Đảng. Điều đó cho thấy Đảng thẳng thắn, mạnh dạn với các khuyết điểm, hạn chế trong nội bộ của mình, như đã từng thể hiện điều đó trong suốt quá trình phát triển của Đảng.


Bên cạnh đó, khi Đảng yêu cầu đảng viên không được làm một số điều thì không có nghĩa là Đảng hạn chế quyền tự do của đảng viên hay rộng hơn là quyền tự do của công dân. Trong xã hội pháp quyền, thượng tôn pháp luật, mỗi cá nhân phải tuân thủ pháp luật, nhưng cá nhân đó là đảng viên thì phải tuân thủ thêm các quy định khác của Đảng. Điều đó hoàn toàn phù hợp với thông lệ và thực tiễn của các xã hội…


Từ đó có thể thấy, tư tưởng chỉ đạo trong Quy định số 37-QĐ/TƯ thể hiện rõ quan điểm phát triển, bởi chính quy định này càng làm mạnh thêm tổ chức, bộ máy và các cán bộ, đảng viên ngày càng thể hiện tính kỷ luật, kỷ cương, tiên phong, gương mẫu để phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn, hoàn toàn khác với ý kiến cho rằng “cái gì không quản được thì cấm” như các thế lực thù địch đã rêu rao.


“Chiếc gương” để mỗi đảng viên “tự soi, tự sửa”


Quy định số 37-QĐ/TƯ thay thế Quy định số 47-QĐ/TƯ ngày 1-11-2011, trên cơ sở đánh giá kết quả 10 năm thực hiện Quy định số 47-QĐ/TƯ. Quá trình thực hiện Quy định số 47-QĐ/TƯ đã bộc lộ một số nội dung hạn chế như, chưa bao quát đầy đủ các nội dung không được làm, chưa theo kịp thực tiễn phát triển của đời sống xã hội và đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Một số nội dung chưa cập nhật, bổ sung kịp thời nhiều quy định mới của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy chuẩn về đạo đức, lối sống, có điểm không còn phù hợp nên khi áp dụng còn vướng mắc… Từ thực tiễn đó, tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Trung ương đã thống nhất ban hành Quy định mới về những điều đảng viên không được làm.


Có thể khẳng định, Quy định số 37-QĐ/TƯ ra đời được ví như “chiếc gương” để mỗi tổ chức Đảng, đảng viên “tự soi, tự sửa”, không để mình bị tha hóa, biến chất. Thực hiện tốt những điều đảng viên không được làm trong Quy định số 37-QĐ/TƯ của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XIII) sẽ góp phần xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng “là đạo đức, là văn minh” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn.


Để phòng, chống, đấu tranh có hiệu quả những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, trước hết, mỗi cơ quan, đơn vị cần quản lý, nắm chắc tình hình hoạt động của các thế lực thù địch, phản động trên các trang mạng xã hội; chủ động đề ra các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn từ sớm, từ xa với những luồng dư luận trái chiều. Cùng với đó, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên trong đơn vị nắm chắc và thực hiện nghiêm những nội dung trong Quy định số 37-QĐ/TƯ, gắn với vạch trần tính chất nguy hiểm của chiêu trò thổi phồng mặt trái, khuyết điểm mà các thế lực thù địch đang tiến hành, nhằm chống phá cách mạng Việt Nam, chống phá Đảng ta.


Thời gian tới, để thực hiện tốt Quy định số 37-QĐ/TƯ và các quy định khác của Đảng, trước hết, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải nhận diện rõ âm mưu và những luận điệu sai trái, xuyên tạc Quy định số 37-QĐ/TƯ cũng như thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước ta của các phần tử phản động, cơ hội chính trị, thế lực thù địch. Điều quan trọng hơn cả là mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị cần “tự soi”, “tự sửa”, cùng với đó là phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức Đảng trong giáo dục, quản lý, kiểm tra, giám sát đảng viên tu dưỡng, rèn luyện, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, uốn nắn và xử lý nghiêm minh những khuyết điểm, sai phạm của đảng viên trong quá trình thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm. Đó chính là biện pháp hữu hiệu để mỗi cán bộ, đảng viên tự "miễn dịch" trước những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch./. 


Bảo Minh

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC VAI TRÒ CỦA QUÂN ĐỘI THAM GIA BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA VÀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ, AN TOÀN XÃ HỘI 

 

Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, có nhiệm vụ chính trị là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu chống xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; đồng thời, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, với mưu đồ chống phá cách mạng nước ta, các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc, phủ nhận. Đây là vấn đề không mới nhưng rất nguy hiểm, cần vạch trần, lên án và kiên quyết đấu tranh, bác bỏ.


Trên một số diễn đàn, trang mạng, phương tiện truyền thông, như: BBC, RFA, VOA, “Viettan”, “Dân làm báo”, “Báo tiếng dân”,… các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thi nhau lu loa rằng: Quân đội tham gia phối hợp với Công an trong bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là không đúng chức năng, nhiệm vụ. Họ bịa đặt, xuyên tạc rằng: Quân đội “lấn sân”, “đàn áp nhân dân”, “quân sự hóa hoạt động dân sự”,... trắng trợn hơn, chúng còn kích động người dân ngăn cản các đơn vị Quân đội tham gia thực thi nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó, chúng triệt để lợi dụng sự hiểu biết chưa đầy đủ của một số cán bộ, chiến sĩ và nhân dân về mối quan hệ giữa quốc phòng và an ninh, cái chung và cái riêng của mỗi lĩnh vực, từ đó khoét sâu vào những thiếu sót, bất cập ở một số địa phương khi giải quyết những vấn đề an ninh để thổi phồng, kích động, làm cho tình hình thêm phức tạp. Mục đích của chúng là nhằm chia rẽ mối quan hệ, sự đoàn kết, thống nhất giữa hai lực lượng Quân đội và Công an trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Chiêu thức này vô cùng nguy hiểm vì nó làm cho không ít người dân, kể cả một số cán bộ, đảng viên nảy sinh tư tưởng giao động, mơ hồ, hoài nghi, hiềm khích mối quan hệ giữa Quân đội và Công an.


Cần khẳng định rõ: các luận điệu xuyên tạc trên là hoàn toàn sai trái, không thể chấp nhận và phải bị vạch trần, lên án, đấu tranh bác bỏ. Bởi, nhiệm vụ tham gia bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của Quân đội ta được khẳng định cả phương diện về lý luận và thực tiễn.


Thứ nhất, Quân đội tham gia bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là xuất phát từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: quốc phòng có mối quan hệ biện chứng với các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, đối ngoại. Và “bạo lực là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới trong lòng”, do đó tất yếu phải sử dụng bạo lực cách mạng với nhiều hình thức khác nhau kể cả hình thức vũ trang nhằm cải tạo xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng, khắc phục sự chống đối của lực lượng phản động. Việc quân đội cách mạng tham gia thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc gia khác về bản chất so với quân đội tư sản. Theo đó, Quân đội tham gia bảo vệ an ninh là tạo tiền đề cho nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, bởi sự ổn định rất cần thiết cho phát triển. Trong khi đó, khái niệm an ninh ngày càng được mở rộng. Trong an ninh hàm chứa cả yếu tố kinh tế, trạng thái bình yên của xã hội, của nhà nước, ổn định của chế độ chính trị, phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng văn hóa và đối ngoại; yếu tố an ninh đã bao hàm trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, an ninh mạng, an ninh con người và cả yếu tố quốc phòng. Quân đội tham gia bảo vệ an ninh quốc gia đã trở thành nhân tố quan trọng, không thể thiếu để đem lại thành công cho sự nghiệp cách mạng mà nhân dân tiến hành. Đây là cơ sở lý luận phản bác luận điểm của các thế lực thù địch đồng nhất bạo lực cách mạng với bạo lực phản cách mạng, đồng nhất sự tham gia trấn áp các thế lực phản động, giữ vững an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của quân đội cách mạng với hành động đàn áp phong trào cách mạng do quân đội tư sản tiến hành.


Hơn thế nữa, theo V.I.Lênin “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự bảo vệ”; đồng thời, chỉ ra trách nhiệm của toàn dân, toàn quân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, trong đó có nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội với nguyên tắc cơ bản nhất là Đảng Cộng sản phải lãnh đạo Quân đội, Công an trong mọi tình huống: “Muốn bảo vệ chính quyền của công nông... chúng ta phải có Hồng quân mạnh mẽ... Có Hồng quân mạnh, chúng ta sẽ vô địch”. Như vậy, luận điệu cho rằng, Quân đội tham gia bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là không đúng chức năng, nhiệm vụ đã hoàn toàn sai về phương diện lý luận.


Thứ hai, Quân đội tham gia bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội bắt nguồn từ tư tưởng Hồ Chí Minh và sự nhất quán trong đường lối lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước ta. Chúng ta biết, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mối liên hệ chặt chẽ giữa quốc phòng và an ninh, Quân đội với Công an đã được thể hiện rõ nét. Theo Người, quốc phòng không đơn thuần chỉ là để chống lại sự xâm lược của kẻ thù từ bên ngoài, an ninh không chỉ là giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội, chống các thế lực phản động bên trong, mà cả hai tuy có nhiệm vụ cụ thể riêng, phương thức bảo vệ riêng nhưng quan hệ mật thiết trong mục tiêu chung bảo vệ Tổ quốc; trong nhiệm vụ quốc phòng có cả an ninh, trong nhiệm vụ an ninh có cả quốc phòng. Người khẳng định: “Công an và Quân đội là hai cánh tay của Nhân dân, của Đảng, của Chính phủ, của vô sản chuyên chính. Vì vậy, càng phải đoàn kết chặt chẽ với nhau, giúp đỡ lẫn nhau, ra sức phát triển ưu điểm, khắc phục những tư tưởng không đúng”. Bác căn dặn: “Công an và bộ đội phải cảnh giác, phải biết trấn áp kẻ địch bên trong và kẻ địch bên ngoài. Kẻ địch bên trong là bọn phản động, bọn phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; kẻ địch bên ngoài là bọn đế quốc, bọn xâm lược. Chống bọn xâm lược và bọn phá hoại là nhiệm vụ của quân đội, của công an nói riêng và toàn dân nói chung”. Người phê bình những quan điểm sai trái: “Cũng có người có ý nghĩ quân đội hơn công an, hoặc công an hơn quân đội. Nghĩ như thế càng không đúng, bởi vì mỗi ngành có nghiệp vụ chuyên môn của nó. Nhưng cả hai đều phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng cả. Vì vậy, không nên coi mình là giỏi mà phải luôn luôn học hỏi lẫn nhau, giúp đỡ nhau để càng ngày càng tiến bộ”.


Đảng ta luôn coi trọng nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nói chung và nhiệm vụ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội nói riêng. Điều đó được thể hiện trong kế thừa, vận dụng, phát triển các quan điểm, chủ trương đã có từ trước về Quân đội tham gia bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội để hoạch định các chủ trương, chính sách phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong từng giai đoạn; được triển khai thực hiện đồng bộ trong Chiến lược bảo vệ Tổ Quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, v.v… Nghị quyết Đại hội XIII khẳng định: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”.


Cùng với đó, trong công tác quản lý nhà nước, Luật Quốc phòng năm 2018 quy định: Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội,... có trách nhiệm phối hợp với Quân đội nhân dân, dân quân tự vệ trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; Luật Công an nhân dân năm 2018 chỉ rõ: Quân đội nhân dân, dân quân tự vệ có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Công an nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và xây dựng Công an nhân dân. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 107/2003/QĐ-TTg, ngày 02/6/2003 về Quy chế phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới; Nghị định số 77/2010/NĐ-CP, ngày 12/7/2010 về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và nhiệm vụ quốc phòng (nay là Nghị định số 03/2019/NĐ-CP, ngày 05/9/2019 về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng) tạo cơ sở pháp lý để Quân đội thực hiện nhiệm vụ. Như vậy, Quân đội tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội bắt nguồn từ tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước ta.


Thứ ba, Quân đội tham gia bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội thể hiện truyền thống đoàn kết, gắn bó, hiệp đồng chiến đấu giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Là “hai cánh tay của Đảng, Chính phủ, của Nhân dân và của chuyên chính vô sản”, “thanh bảo kiếm và lá chắn” bảo vệ hòa bình, chế độ xã hội chủ nghĩa, gần 80 năm qua, trong mọi hoàn cảnh, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân luôn kề vai, sát cánh, đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và đã trở thành truyền thống vẻ vang, kinh nghiệm quý của hai lực lượng. Nước nhà độc lập, trong hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, lực lượng Quân đội, Công an, dân quân tự vệ đã phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ đập tan mọi âm mưu chống phá cách mạng của các tổ chức phản động ngay trong trứng nước; cùng với nhân dân chiến đấu anh dũng “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” bảo vệ Thủ đô; đồng cam, cộng khổ, hy sinh, phối hợp, hiệp đồng chiến đấu chống hoạt động do thám, gián điệp, phản động tay sai, càn quét của địch, bảo vệ vững chắc hậu phương và khu căn cứ kháng chiến, góp phần làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Mối quan hệ tốt đẹp đó còn được thể hiện ở sự phối hợp, hiệp đồng đấu tranh chống gián điệp, biệt kích của Mỹ - ngụy phá hoại miền Bắc cũng như bảo vệ các cơ sở, căn cứ cách mạng miền Nam trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, v.v… Đó là biểu tượng cao đẹp, tô thắm truyền thống đoàn kết, gắn bó, hiệp đồng chiến đấu giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.


Cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, hai lực lượng tiếp tục đoàn kết, thường xuyên trao đổi, nắm chắc tình hình, chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước các chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; trực tiếp triệt phá các tổ chức Fulro, các băng nhóm tội phạm, các nhen nhóm phản động, bảo đảm an ninh, trật tự khu vực biên giới, biển, đảo và nội địa, nhất là địa bàn chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Tích cực cùng nhân dân phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, đặc biệt là trong đại dịch Covid-19, cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã phát huy văn hóa, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, cống hiến, hy sinh, khắc phục mọi khó khăn gian khổ để đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. Cùng với đó, Quân đội còn tích cực tham gia có hiệu quả xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh với các mô hình: “Liên kết xây dựng vùng giáp ranh an toàn về an ninh, trật tự”, “Tiếng kẻng vùng biên”, “Xóm chài bình yên”, “Cụm tàu thuyền an toàn”,... tạo sức mạnh tổng hợp xây dựng thế trận quốc phòng và an ninh vững chắc. Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng khẳng định: “Thời gian qua, những vấn đề phức tạp về quốc phòng, an ninh được hai lực lượng phối hợp tham mưu với Đảng, Nhà nước, triển khai xử lý kịp thời, hiệu quả, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Sự đoàn kết, phối hợp giữa hai lực lượng đã trở thành truyền thống, là nhân tố không thể thiếu, góp phần làm nên sức mạnh của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân”.


Thực tiễn lịch sử đã minh chứng, Quân đội tham gia và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội đã góp phần tạo thế chủ động bảo vệ vững chắc Tổ quốc, cùng với toàn Đảng, toàn dân phấn đấu vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Sự thật này không ai có thể chối cãi được! Vì thế, những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận nhằm hạ thấp vai trò của Quân đội, chia rẽ sự đoàn kết, thống nhất giữa Quân đội và Công an trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa phải bị vạch trần, lên án, đấu tranh bác bỏ./. 


Tạ Minh Anh

Thứ Ba, 23 tháng 1, 2024

SỨC TRẺ TRÊN TRẬN TUYẾN CAM GO VỚI TỘI PHẠM CÔNG NGHỆ CAO

 

Tội phạm sử dụng công nghệ cao đang diễn biến phức tạp, đó chính là một trong những thách thức lớn đối với công tác đảm bảo ANTT. Trước tình hình đó, Phòng An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao Công an tỉnh Thừa Thiên Huế, đặc biệt là các chiến sĩ trẻ tại đơn vị càng thể hiện quyết tâm để đấu tranh hiệu quả với tội phạm qua việc góp phần triệt phá hàng chục chuyên án, vụ án xuyên tỉnh, xuyên quốc gia, mang lại sự bình yên cho nhân dân…


Thượng tá Mai Văn Toàn, Trưởng phòng An ninh mạng và Phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao Công an tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết, thời gian qua, tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao trên không gian mạng (KGM) diễn biến hết sức phức tạp, không chỉ gia tăng về số vụ mà còn về tính chất, mức độ và tài sản thiệt hại. “Con mồi” mà các đối tượng nhắm đến có cả những người hiểu biết, có trình độ... Trước tình hình đó, đơn vị đã bám sát chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Giám đốc Công an tỉnh để triển khai đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ nhằm đấu tranh hiệu quả với tội phạm này.


Phòng An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao Công an tỉnh Thừa Thiên Huế họp bàn kế hoạch công tác.


Một trong số hàng chục chuyên án, vụ án mà lực lượng An ninh mạng và Phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao triệt phá để lại dấu ấn trong lòng người dân, đó là vụ phá đường dây tổ chức tội phạm quốc tế lừa đảo chiếm đoạt tài sản xuyên quốc gia với sự câu kết chặt chẽ của 7 đối tượng người Nigeria và 4 đối tượng người Việt Nam. Cầm đầu đường dây là Dalaxy Dave (người Nigeria) đã sử dụng Facebook, Zalo, WhatsApp… để kết bạn với các bị hại người Việt Nam rồi trò chuyện, làm quen, tạo lòng tin. Tiếp đó, đối tượng dùng các thủ đoạn như giả danh quân nhân Mỹ gửi tặng quà về Việt Nam, rủ đầu tư, góp vốn kinh doanh tại nước ngoài. Các đối tượng đã lừa đảo hàng ngàn bị hại tại nhiều tỉnh, thành với số tiền hơn 120 tỷ đồng.


Trung tá Phan Khắc Hiệp, Đội trưởng Đội Phòng, chống tội phạm sử dụng KGM xâm phạm trật tự an toàn xã hội cho biết, ở các loại tội phạm khác, khi một vụ án xảy ra, các trinh sát đi điều tra, xác minh thực tế. Thế nhưng đối với tội phạm công nghệ cao, thông tin đối tượng đưa lên KGM đều là tài khoản ảo. Từ tài khoản ảo đó, các trinh sát mới lần tìm ra manh mối, chân dung đối tượng và khi có kết quả mới bắt đầu xác minh, điều tra…


Mới đây, quá trình trinh sát trên KGM, Phòng An ninh mạng và Phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao phát hiện đường dây mang thai hộ và mua bán thận liên tỉnh do các đối tượng đăng trên facebook ảo. Đây là đường dây hoạt động chuyên nghiệp trên toàn quốc, nhiều giấy tờ, hồ sơ được làm giả một cách tinh vi. Nếu mỗi ca mang thai hộ có giá khoảng 450 đến 600 triệu đồng, thì mỗi ca mua bán thận có giá khoảng 900 triệu đến gần 1,5 tỷ đồng.


Sau khi xác lập chuyên án, qua xác minh trên KGM từ các tài khoản ảo, Công an xác định các đối tượng liên quan gồm: Trương Thị Thùy Trinh (SN 1993, trú tỉnh Bình Thuận), Trần Tuấn Anh (SN 1992, trú tỉnh Hà Nam) và Trần Việt Thành (SN 1996, trú tỉnh Thái Nguyên). Các đối tượng này đã tổ chức môi giới, sử dụng tài khoản facebook ảo tham gia vào các nhóm liên quan đến mang thai hộ, hiến thận và đã tổ chức trót lọt nhiều vụ mua bán thận, mang thai hộ trên toàn quốc… Đến giữa tháng 12/2023, Cơ quan CSĐT đã khởi tố, bắt tạm giam 5 đối tượng trong đường dây này.


Tốt nghiệp ngành Công nghệ thông tin Trường Đại học Kỹ thuật – Hậu cần CAND, Trung úy Hồ Nguyễn Quang Nhật được phân công về công tác tại Phòng An ninh mạng và Phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao Công an tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2021. Chỉ sau hơn 2 năm công tác, anh cùng đồng đội đấu tranh thành công nhiều chuyên án, vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng. Có vụ việc tưởng chừng không tìm ra thủ phạm bởi chứng cứ mờ nhạt, các tài khoản ảo đã bị đối tượng xóa sạch, thế nhưng, với sự kiên quyết đấu tranh đến cùng với tội phạm, anh cùng đồng đội đã đưa nhiều đối tượng ra ánh sáng.


Điển hình là vụ Lê Thanh Phụng (SN 2003, trú tỉnh Quảng Trị) chiếm đoạt số tiền lớn của một nữ tu sĩ, vừa bị TAND tỉnh Thừa Thiên Huế kết án 14 năm tù. Trước đó, bà H (nữ tu sĩ) nhận được tin nhắn tài khoản cộng 23 triệu đồng tiền ủng hộ. Tưởng đây là số tiền được nhà hảo tâm chuyển làm từ thiện nên bà H bấm vào đường link và làm theo hướng dẫn. Không ngờ, chỉ vài chục giây sau, tài khoản ngân hàng của bà H bị mất quyền điều khiển và bị chiếm đoạt 537 triệu đồng.


Vận dụng đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ, ngay khi xác định được nơi ở của đối tượng, trong đêm, Ban chuyên án của Phòng An ninh mạng và Phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao đã tức tốc lên đường truy bắt. Quá trình điều tra cho thấy, thủ đoạn của Phụng là lập Facebook ảo lấy tên “Tommy Le” để tham gia vào các hội nhóm kín và kết bạn với các tu sĩ. Sau đó, đối tượng nhắn tin muốn chuyển tiền làm từ thiện. Khi nạn nhân tin tưởng, đối tượng gửi đường link đề nghị “con mồi” đăng nhập rồi chiếm quyền sử dụng tài khoản để thực hiện lệnh chuyển tiền.


“Quá trình giải mã tội phạm trong vụ án này, dấu vết để lại trên môi trường mạng ngày càng ít và khó khăn trong việc phân tích. Bởi, đối tượng dùng hoàn toàn ID giả, facebook giả, điện thoại sim rác, thực hiện hành vi phạm tội ở các điểm kết nối Internet công cộng… Thế nhưng, các trinh sát đã vận dụng đồng bộ các kiến thức, biện pháp nghiệp vụ, nhiều ngày đêm kiên trì chắp nối các dấu vết mờ nhạt để sớm tìm ra thủ phạm”, Trung úy Hồ Nguyễn Quang Nhật chia sẻ.


Khác với các loại tội phạm khác, tội phạm công nghệ cao hầu hết đều có kiến thức, trình độ về công nghệ thông tin, luôn chuẩn bị kĩ lưỡng các kế hoạch gây án, sử dụng các tài khoản ảo, thường xuyên thay đổi thông tin cá nhân, số điện thoại và địa bàn hoạt động. Bên cạnh đó, đối tượng thực hiện hành vi phạm tội chủ yếu là người ngoại tỉnh, người Việt Nam đang cư trú tại nước ngoài và thậm chí là người nước ngoài. Quá trình gây án, các đối tượng luôn tìm mọi cách để che đậy hành vi phạm tội của mình, qua mặt lực lượng chức năng bằng cách ẩn danh địa chỉ IP, chỉ liên lạc với nhau qua mạng xã hội và thường xuyên thay đổi chỗ ở…


Là một cán bộ trẻ, trực tiếp tham gia nhiều chuyên án, vụ án lớn, Trung úy Lê Công Anh Sơn cho rằng, để đối phó với tội phạm công nghệ cao, mỗi trinh sát phải vừa tinh thông về chuyên môn nghiệp vụ Công an lẫn chuyên môn kỹ thuật. Ngoài công tác nghiệp vụ ở đơn vị, mỗi chiến sĩ trẻ còn phải thường xuyên trau dồi kiến thức về công nghệ thông tin để bắt kịp với xu thế hiện đại, tập trung nghiên cứu, phát triển, xây dựng các giải pháp để ứng dụng vào công tác nghiệp vụ.


Cuộc chiến chống tội phạm sử dụng công nghệ cao vẫn tiếp tục cam go nhưng các chiến sĩ trẻ trên trận tuyến đấu tranh với tội phạm này vẫn luôn quyết tâm vượt qua để ngăn chặn những tên tội phạm “tàng hình”, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm ANTT trên địa bàn.



Hải Lan