Tìm kiếm

Thứ Tư, 25 tháng 12, 2019

Rèn luyện bản lĩnh chính trị là yêu cầu vừa cấp bách vừa thường xuyên

Rèn luyện bản lĩnh chính trị là yêu cầu vừa cấp bách vừa thường xuyên
BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ LÀ PHẦN CỐT LÕI, CƠ BẢN NHẤT
Bản lĩnh chính trị là sự tổng hợp biện chứng của lập trường chính trị, phẩm chất chính trị và năng lực chính trị; là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho mỗi cán bộ, đảng viên có định hướng chính trị đúng đắn, luôn làm chủ bản thân, làm chủ hoàn cảnh thực tiễn và kiểm soát được hành vi, thái độ của mình trong mọi tình huống. Đó chính là sự vững vàng, kiên định, chủ động trong cả suy nghĩ và hành động trước những khó khăn, thách thức của cuộc sống, đúng như V.I.Lênin từng nhấn mạnh: “Chỉ giai cấp nào đi theo con đường của mình mà không do dự, không chán nản và không sa vào tuyệt vọng trong những bước ngoặt khó khăn nhất, gay go nhất và nguy hiểm nhất, thì mới có thể lãnh đạo được những quần chúng lao động và bị bóc lột. Chúng ta không cần những sự hăm hở điên cuồng. Điều cần thiết cho chúng ta, chính là bước đi nhịp nhàng của những đoàn quân vững như gang thép của giai cấp vô sản”[1].
Bản lĩnh chính trị là phần cốt lõi, cơ bản nhất, là phẩm chất quan trọng cần phải có hàng đầu của mỗi cán bộ, đảng viên; là sự cụ thể hóa bản lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, mang bản chất giai cấp công nhân, vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người; là sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân; là tinh thần, ý chí, quyết tâm phấn đấu, vượt mọi gian khổ và không dao động trước thử thách, áp lực để hoàn thành nhiệm vụ. Đó còn là tinh thần chủ động trong đấu tranh vạch trần, phản bác những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, góp phần làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động của chúng, phòng và chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ…
Theo Hồ Chí Minh, bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên là sự thể hiện tính giai cấp, “tính Đảng” trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm; là luôn “nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”[2]; là “phải quyết tâm suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Đó là phẩm chất cao quý của người cách mạng, đó là đạo đức cách mạng, đó là tính Đảng, tính giai cấp, nó đảm bảo cho sự thắng lợi của Đảng, của giai cấp, của nhân dân”[3].
Do đó, rèn luyện bản lĩnh chính trị để mỗi cán bộ, đảng viên thấm nhuần sâu sắc mục tiêu, lý tưởng cách mạng, “kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới”[4]; đồng thời, nỗ lực, sáng tạo và phát huy sức mạnh tiềm năng hoàn thành nhiệm vụ được giao phó là yêu cầu vừa thường xuyên, vừa bức thiết trong công tác xây dựng Đảng. Qua đó, không chỉ nhằm “xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, gần dân, sát dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng”[5], “nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả”[6] mà còn góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, thiết thực xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên là một trong những yếu tố quan trọng hình thành bản lĩnh chính trị của Đảng. Bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng thể hiện ở những quyết định đúng đắn, kịp thời, phù hợp yêu cầu của thực tiễn, nhất là ở trong những thời khắc có ý nghĩa bước ngoặt. Nhờ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trong 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xuyên suốt và nhất quán trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Đảng luôn coi trọng việc rèn luyện để nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên - nhân tố quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng, trong mọi hoàn cảnh, thời điểm.
Rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên là toàn bộ hoạt động của các cấp uỷ, tổ chức đảng và của chính cán bộ, đảng viên trên tinh thần quán triệt sâu sắc và theo đúng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; xây dựng và xác định rõ các tiêu chí đánh giá bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên; được tiến hành đồng bộ: từ việc nâng cao nhận thức tư tưởng, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị đến nâng cao năng lực công tác, phương pháp làm việc, tác phong công tác; với sự tham gia, phối hợp của nhiều lực lượng và đi liền cùng đó là tạo điều kiện và môi trường thử thách để rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn liền với việc đề cao vai trò tự giác tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị của mỗi người.
Rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên có vai trò quan trọng trong bối cảnh đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng; khi mà một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những cán bộ, đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, với những biểu hiện về sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, chạy theo danh lợi, tiền tài, địa vị, tham ô, tham nhũng, mư cầu lợi ích nhóm… Thực tế công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng những năm qua, đặc biệt là khi triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” gắn với Chỉ thị 03-CT/TW về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, với những quy định về những điều đảng viên không được làm… đã cho thấy việc rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên đã được triển khai thực hiện nghiêm túc ở Trung ương và địa phương.
Thông qua việc học tập, quán triệt, bồi dưỡng và tu dưỡng về mọi mặt, năng lực nhận thức, trình độ hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng của Đảng, sự kiên định mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội của đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên. Mỗi người trong mọi mặt công tác đã được bồi dưỡng và tự bồi dưỡng để có tư duy khoa học độc lập, năng lực tự định hướng và phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao phó; đã nâng cao năng lực tự rèn luyện, tu dưỡng trong thực tiễn về phẩm chất đạo đức, nhân cách, phương pháp công tác, kỹ năng làm việc và lãnh đạo gắn liền với việc tôi luyện ý chí, tinh thần kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, phản động, nhất là khả năng “tự đề kháng”, “tự miễn dịch” với những cám dỗ vật chất, những tiêu cực từ cơ chế kinh tế thị trường, với những thủ đoạn, âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch… Cùng với việc đổi mới và nâng cao chất lượng công tác tư tưởng của Đảng, việc rèn luyện bản lĩnh chính trị thường xuyên, liên tục gắn với tu dưỡng đạo đức cách mạng, thực hiện tự phê bình và phê bình nghiêm túc của mỗi người, với công tác kiểm tra và giám sát nghiêm túc của mỗi cấp ủy sẽ khiến “phú quý không dụ dỗ được ta, nghèo khổ không lay động được ta, oai lực không dọa nạt được ta. Mà khó khăn gì chúng ta cũng vượt qua được, việc gì chúng ta cũng làm được”[7].
RÈN LUYỆN BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ ĐỂ PHÒNG VÀ CHỐNG SỰ SUY THOÁI
Bản lĩnh chính trị vững vàng là một phẩm chất quyết định sự sống còn và thành công của mỗi cán bộ, đảng viên và của Đảng, song đó là kết quả của một quá trình giáo dục, bồi dưỡng, học tập và rèn luyện thường xuyên, kiên trì, bền bỉ trong thực tiễn. Thực tế cho thấy, về cơ bản, đội ngũ cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực chuyên môn để làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Đặc biệt, nhiều cán bộ, đảng viên với bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn “kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện”[8] đã năng động, sáng tạo, đi đầu trong mọi lĩnh vực, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm với những công việc khó, mới trong xu thế toàn cầu hóa. Đó có thể là những điều chưa có trong sách vở nhưng đang xảy ra trong thực tiễn và khi đã nghĩ “là đúng” thì phải dấn thân để làm, quyết tâm làm để đưa cái đúng vào cuộc sống; đồng thời, lấy kết quả cuối cùng để chứng minh và bảo vệ mình, tổ chức mình.
Tuy nhiên, trước những tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, những khó khăn, phức tạp nảy sinh trong quá trình hội nhập, đặc biệt là với các thủ đoạn tinh vi và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động, đã có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng; lập trường tư tưởng không vững vàng nên hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài về lý tưởng cách mạng của người cộng sản, giảm sút ý chí, niềm tin về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; mang nặng chủ nghĩa cá nhân vị kỷ: độc đoán, chuyên quyền, lạm dụng quyền lực, chạy bằng cấp, chạy quy hoạch, chạy chức, chạy quyền và nhất là  bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất nên đã vi phạm pháp luật, đã bị khai trừ khỏi đảng và vướng vòng lao lý, v.v..  
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã chỉ rõ về sự suy thoái nêu trên; trong đó nhấn mạnh: “Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao”...
Cùng với đó, một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì thế mà hoài nghi, thiếu tin tưởng và nhất là không thiết tha với việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bộ phận cán bộ, đảng viên này đã không chủ động, tự giác, tích cực kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động mà đôi khi và thậm chí còn cổ súy, phụ họa “té nước theo mưa” cho một số quan điểm sai trái, lệch lạc,v.v.. Nguy hiểm hơn là trong thực tế, đã có “không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””[9].
V.I.Lênin đã từng chỉ rõ, các thế lực thù địch không thể đánh đổ được những người cộng sản, trừ chính những sai lầm của chính mình và “không một ai trên thế giới này có thể làm mất được uy tín của những người Mácxít cách mạng nếu họ không tự làm mất uy tín của họ”[10]. Điều đó có nghĩa là, việc rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không chỉ có vai trò quan trọng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức mà còn có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng và của công tác cán bộ, công tác đảng viên nói chung.
Vì thế, để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, cần thấm nhuần và thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, mỗi cấp ủy không chỉ phải nâng cao hơn nữa nhận thức về tầm quan trọng của việc phải thường xuyên, liên tục rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên mà còn phải coi đó là yêu cầu vừa bức thiết vừa thường xuyên của công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Gắn việc rèn luyện để nâng cao bản lĩnh chính trị với việc phát huy tính tiền phong, gương mẫu, thống nhất giữa nói và làm của cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt và người đứng đầu nói riêng. Thông qua việc chú trọng “xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị”[11], từng bước đẩy lùi, ngăn chặn các nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng, góp phần nâng cao uy tín lãnh đạo của Đảng, năng lực và sức chiến đấu của Đảng nói chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng.
Hai là, mỗi cấp ủy cần xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, sát thực tiễn để quán triệt, thực hiện tốt hơn nữa các nghị quyết, quy định của Đảng về học tập lý luận chính trị; trong đó, tập trung thực hiện Quy định số 54-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng; Quy định số 164-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý,v.v.. Theo đó, hệ thống các trường chính trị từ Trung ương đến địa phương cần tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị; trong đó, chú trọng xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng thiết thực, hiệu quả, phù hợp từng đối tượng, phù hợp điều kiện đặc thù của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ba là, việc đánh giá bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt nói riêng phải căn cứ vào đặc thù từng lĩnh vực, từng địa phương, cơ quan, đơn vị mà họ công tác. Do đó, cùng với việc đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp tiếp tục gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và các Quy định về nêu gương là việc các cấp ủy từ Trung ương đến địa phương phải xây dựng các tiêu chí để đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên phù hợp bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng. Khi xem xét, đánh giá phải dựa vào tiêu chí, nội dung đăng ký thực hiện và kết quả công tác của mỗi người; thống nhất giữa đánh giá bản lĩnh chính trị với kết quả thực thi nhiệm vụ, gắn đánh giá đạo đức công vụ với đánh giá kết quả thực thi công vụ, đảm bảo hiệu quả thực sự trong đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên hằng năm, khắc phục triệt để cách đánh giá cán bộ, đảng viên một cách chung chung, hình thức, dĩ hòa vi quý... Thông qua đó, tạo động lực để cán bộ, đảng viên phấn đấu vươn lên, rèn luyện bản lĩnh chính trị, kiên định, kiên trì và năng động, sáng tạo hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Bốn là, phát huy tính tích cực, tự giác trong rèn luyện bản lĩnh chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên, trong đó cán bộ cấp càng cao càng phải gương mẫu rèn luyện bản lĩnh chính trị, nghiêm khắc với bản thân mình. Đồng thời, cấp ủy các cấp chú trọng xây dựng cơ chế để mỗi người đều phải nỗ lực rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Học lúc ra thực hành mới vững chắc, hăng hái, lúc gặp khó khăn mới kiên quyết, hy sinh để tu dưỡng đạo đức cách mạng: Có đạo đức cách mạng thì mới hy sinh tận tụy với cách mạng, mới lãnh đạo được quần chúng đưa cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn. Học để tin tưởng: Tin tưởng vào Đoàn thể. Tin tưởng vào nhân dân. Tin tưởng vào tương lai của dân tộc. Tin tưởng vào tương lai của cách mạng”[12]. Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện, môi trường, các phong trào thi đua, các cuộc vận động để cán bộ, đảng viên trải nghiệm, tự giác rèn luyện để nâng cao bản lĩnh chính trị. Qua đó, không chỉ giúp họ tự mình tu dưỡng, phấn đấu, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực công tác đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách mạng mà còn góp phần nâng cao chất lượng công tác cán bộ, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ.
Năm là, cùng với việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, đội ngũ cán bộ của Đảng là việc thực hiện tốt quy trình, quy hoạch đội ngũ cán bộ và tạo môi trường cho cán bộ, đảng viên, đội ngũ lãnh đạo, quản lý chủ chốt được thử thách, rèn luyện bản lĩnh chính trị. Thực tế cho thấy, bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên có điều kiện bộc lộ rõ khi được trải nghiệm trong môi trường thực tiễn nhiều thử thách, có độ phức tạp và nhạy cảm về chính trị, cho nên, cần thực hiện tốt việc luân chuyển cán bộ, đảng viên trong diện quy hoạch, nguồn quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, để đào tạo, bổ sung kiến thức lý luận và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn cho họ, nhất là trước các kỳ đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội của Đảng. Trong đó, chú trọng thực hiện “cơ chế phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội và triển vọng phát triển vào vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả vượt cấp, nhất là cán bộ trẻ” và “xây dựng kế hoạch cụ thể để luân chuyển, điều động giữ vị trí cấp trưởng, phù hợp với chức danh quy hoạch ở địa bàn khó khăn, lĩnh vực trọng yếu, nơi triển khai mô hình mới để thử thách, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, nhân sinh quan cách mạng, năng lực lãnh đạo toàn diện của cán bộ” theo đúng tinh thần Nghị quyết 26-NQ/TW khóa  XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” gắn liền với công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Đặc biệt, chú ý những địa bàn, lĩnh vực trọng yếu, nhiều khó khăn, thử thách, nhạy cảm và phức tạp để thông qua đó, rèn luyện những cán bộ trẻ có triển vọng phát triển, được quy hoạch và dự kiến bổ nhiệm giữ trọng trách cao, để kịp thời sàng lọc, loại bỏ những cán bộ “đẹp hồ sơ” nhưng lập trường chính trị, phẩm chất chính trị và năng lực chính trị không tương xứng./.
TS. Văn Thị Thanh Mai
TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền
_ _ _ _ _

Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2019

Người Mỹ học được gì sau chiến tranh Việt Nam


 - Phải rất lâu sau khi cuộc chiến tranh tại Việt Nam kết thúc, người Mỹ mới dần hiểu rằng, họ không thể dùng sức mạnh để đánh bại ý chí giành độc lập của người Việt Nam.

Trung tá thủy quân lục chiến Mỹ James G.Zumwalt, người từng tham chiến tại Việt Nam, nói rằng: “Trước khi trở lại Việt Nam năm 1994, tôi đã có cùng ý kiến với nhiều người Mỹ rằng nếu tiến hành cuộc chiến tranh ở Việt Nam một cách hợp lý, không có áp lực chính trị, thì người Mỹ đã chiến thắng”.
Tuy nhiên, sau chuyến thăm và tìm hiểu về các đối thủ cũ, viên cựu trung tá đã nhận ra rằng: “Người Việt Nam có một ý chí sắt đá để có thể chiến đấu đến chừng nào thống nhất đất nước mới thôi”.
Viên trung tá không phải chỉ là một quân nhân bình thường. Ông là con trai của Phó Đô đốc Elmo Russell Zumwalt Jr., Tư lệnh Hải quân Mỹ đặc trách lực lượng duyên hải và đường sông tại Việt Nam trong giai đoạn 1968-1970. Ông còn có người anh trai là Trung úy Hải quân Elmo R.Zumwalt, III, người từng chỉ huy một tàu tuần tra PCF-35 hoạt động trên các sông rạch miền Nam Việt Nam. Trung úy Elmo đã chịu ảnh hưởng của chất độc da cam mà quân Mỹ rải xuống dọc các kênh rạch, và qua đời năm 1988 vì ung thư ở tuổi 42.
“Phải học từ đường mòn Hồ Chí Minh và địa đạo Củ Chi”
James G.Zumwalt cho rằng, hai nơi thể hiện rõ nhất quyết tâm và thái độ của người Việt Nam là đường mòn Hồ Chí Minh và địa đạo Củ Chi. “Hiểu được quyết tâm duy trì đường mòn Hồ Chí Minh và cũng như bám trụ tại địa đạo Củ Chi chính là hiểu được “ý chí thép” của họ”, ông viết.
Sau những chuyến đến Việt Nam, gặp, phỏng vấn và trò chuyện thẳng thắn với những người từng đối đầu với mình, ông đã viết nên cuốn sách “Bare feet, Iron will” (Chân trần, ý chí thép), xuất bản tháng 4/2010 (NXB Tổng hợp TP.HCM xuất bản năm 2011 với bản dịch của Đỗ Hùng) và thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận Mỹ.
Nói về đường mòn Hồ Chí Minh, James G.Zumwalt khẳng định đây chính là chìa khóa thành công của miền Bắc trong cuộc đối đầu với quân đội Mỹ. Ông nhắc lại câu trả lời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp rằng nếu người Mỹ cắt đứt được đường mòn thì họ mới mong có một kết quả khác mà thôi.
chiến tranh Việt Nam,Robert McNamara,James G.Zumwalt,Chân trần chí thép
Sách Chân trần chí thép
Sau khi bày tỏ sự thán phục lần lượt qua những sáng kiến của các lực lượng vận tải, công binh, dân công, quân y, phòng không… của Việt nam đã duy trì con đường huyết mạch này, James cho rằng đường mòn chính là minh chứng cho sức mạnh ý chí của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến vì lý tưởng, bất chấp cái giá phải trả và bất chấp cơ hội chiến thắng mong manh.
Ông cũng bày tỏ sự khâm phục với hàng trăm ngàn người Việt Nam đã chiến đấu để bảo vệ an toàn cho tuyến đường và đã hy sinh tính mạng của mình cho sứ mệnh cao cả ấy.
Trong khi đó, với Củ Chi, vùng đất thép nằm ngay sát cửa ngõ Sài Gòn, viên cựu trung tá thủy quân lục chiến Mỹ đánh giá: Sự hình thành hệ thống địa đạo là bằng chứng về lòng kiên trì, quyết tâm cống hiến và kỹ năng của du kích Củ Chi trong suốt 30 năm.
Khi quân Mỹ quyết tâm khuất phục du kích địa đạo, liên tục thay đổi chiến thuật để đánh bật họ ra khỏi lòng đất, thì họ đã chứng tỏ một quyết tâm mãnh liệt hơn, luôn tìm ra cách để đối phó với những thay đổi chiến thuật đó. Trong cuộc đọ sức về ý chí dưới lòng đất, du kích địa đạo là những tường thành vững chãi, không bao giờ bị đánh bật.
Từ hai minh chứng nổi bật ở đường mòn Hồ Chí Minh và địa đạo Củ Chi, James Zumwalt khẳng định những người lính Việt Nam là những người tuy có đôi chân trần, nhưng có ý chí thép để giúp họ chiến thắng trước người Mỹ - những người không có một quyết tâm tương xứng.
Rút ra bài học về những sai lầm của người Mỹ
Neil Sheehan - nhà báo Mỹ, một trong những người phanh phui Tài liệu mật Lầu Năm Góc ra trước công luận năm 1971 đã nhận định rằng: “Sau những năm dài tìm cách khuất phục những dân tộc nghèo khổ bằng sự tàn bạo của sức mạnh kỹ thuật của mình, nước Mỹ, một nước giàu mạnh nhất trên quả đất này, cuối cùng có thể bị những người cộng sản Việt Nam đuổi ra khỏi bán đảo Đông Dương. Nếu đúng như vậy, thì thắng lợi của người Việt Nam sẽ là một thí dụ vô song về sự toàn thắng của trí tuệ con người đối với máy móc”.
Sheehan, cựu phóng viên tờ The New York Times, là tác giả hai cuốn sách giá trị về chiến tranh Việt Nam gồm “A Bright Shining Lie: John Paul Vann and America in Vietnam” (Sự lừa dối hào nhoáng: John Paul Vann và người Mỹ tại Việt Nam), cuốn sách đã đem lại cho ông giải thưởng danh giá Pulitzer và “After The War Over: Hanoi and Saigon” (Sau chiến tranh: Hà Nội và Sài Gòn). Ông đã viết trong cuốn sách thứ hai nói trên rằng:
“Chúng ta, những người Mỹ, vốn tự cho mình là ngoại lệ của lịch sử, cũng có thể mắc sai lầm như phần còn lại của nhân loại; chúng ta có thể thủ ác dễ dàng như khi làm việc thiện. Tất cả chúng ta đã quá kiêu ngạo trong thời kỳ xấc xược ấy”.
“Chúng ta không thể hiểu được rằng chúng ta đã theo đuổi những điều không tưởng và đã gây ra bi kịch tột cùng cho chính chúng ta cũng như cho dân tộc Việt Nam và các dân tộc khác tại Đông Dương”, tác giả này viết tiếp và đi đến kết luận đi ngược lại hoàn toàn những luận điệu của giới chức Mỹ trong suốt cuộc chiến, rằng Việt Nam chưa bao giờ là mối đe dọa đối với nước Mỹ.
“Họ đơn giản chỉ muốn chúng ta trở về nhà, và họ sẽ không bao giờ ngừng kháng cự, bất chấp họ và chúng ta phải trả giá thế nào cho tới lúc chúng ta rút đi. Tôi mất năm năm để nghiệm ra điều đó”, Sheehan viết trong cuốn sách xuất bản năm 1993.
Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara (1916-2009), trong cuốn Hồi ký “Hồi tưởng” xuất bản năm 1995, cũng đã nêu ra 11 sai lầm của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, trong đó ông đánh giá về đối thủ như sau:
“Chúng ta đánh giá thấp sức mạnh của tinh thần dân tộc có thể huy động nhân dân đấu tranh và hy sinh vì đức tin và giá trị của họ”.
McNamara cũng thẳng thắn nhận định: “Cách nhìn nhận của chúng ta về bạn và thù phản ánh sự dốt nát sâu sắc của chúng ta về lịch sử, văn hoá và chính trị của nhân dân Việt Nam, cũng như về nhân cách và tập quán của các nhà lãnh đạo của họ”.
Còn với James G.Zumwalt, ông rút ra bài học rằng: “Tinh thần dân tộc, lòng tự hào và quyết tâm của mỗi người dân Việt Nam đã phát triển thành một sức mạnh vĩ đại nhất – một Chí Thép – giúp họ thực hiện được điều tưởng như không thể. Nhờ đó, Chí Thép của họ đã đánh bại công nghệ của siêu cường hùng mạnh nhất thế giới”.
Ông cũng bày tỏ sự tiếc nuối với nước Mỹ: “Đáng tiếc là chúng ta không hiểu được phẩm chất này của người Việt Nam. Chúng ta không nhận thấy, trong bản phân tích cuối cùng rằng chiến thắng không quyết định bởi công nghệ mà bởi quyết tâm của con người. Ý chí của những người Việt Nam không bao giờ sụt giảm dù họ phải chiến đấu với những đôi Chân Trần”.
Cuối cùng, sau khi tìm hiểu về người Việt Nam, viên trung tá sinh ra trong một gia đình có truyền thống binh nghiệp nhiều đời mới thấm thía câu nói của viên tướng Mỹ nổi tiếng trong chiến tranh thế giới thứ II George Patton: “Đánh nhau bằng vũ khí, chiến thắng bằng con người!”.
Lê Tiên Long

Thứ Ba, 17 tháng 12, 2019

Đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, góp phần ngăn ngừa tham nhũng

Trên cơ sở khái quát những nội dung cơ bản về tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và rút ra kết luận suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là nguyên nhân dẫn đến tệ nạn tham nhũng ở nước ta, bài viết đề xuất một số giải pháp góp phần đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống góp phần giảm thiểu, ngăn ngừa tệ nạn tham nhũng ở nước ta hiện nay.
Tham nhũng ở Việt Nam xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân nguồn cội, nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến tham nhũng là quá trình tha hóa của những người thực hiện hành vi này bắt đầu từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Vì vậy, đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống sẽ góp phần giảm thiểu, ngăn ngừa tệ nạn tham nhũng ở nước ta hiện nay.

1. Suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và tham nhũng

Theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”(1). Tham nhũng ở mỗi quốc gia cũng có tính đặc thù, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, văn hóa, pháp lý, truyền thống lịch sử... Tham nhũng ở Việt Nam có một số đặc điểm sau:

Một là, có tham nhũng nhỏ, vặt vãnh được thực hiện thông qua việc sách nhiễu, cố ý gây phiền hà cho người dân, biến việc đơn giản thành phức tạp, lợi dụng những quy định rườm rà, hình thức của thủ tục hành chính để dây dưa, trì hoãn giải quyết các việc hành chính - dân sự với mục đích buộc người dân phải mất tiền hoặc thứ khác có giá trị nếu muốn được việc.

Hai là, tham nhũng lớn hơn thường gắn với việc làm, vị trí công tác, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ. Chức vụ cao, vị trí cao có khả năng “sinh lời lớn” thì mức độ tham nhũng  lớn. Thủ đoạn tham nhũng này có trung gian, môi giới, hình thành quy định ngầm: mọi việc đều được định giá bởi đồng tiền, có thể tạm ứng trước, thu hồi sau, rốt cuộc tham nhũng đẻ ra tham nhũng.

Ba là, tham nhũng rất lớn, hình thành sự đan xen, phối hợp giữa các cá nhân có cùng mục đích phi pháp (nhóm lợi ích), thao túng tổ chức, thể chế, chính sách và những người có trọng trách, thẩm quyền quyết định. Loại tham nhũng này thường gắn với xét duyệt dự án, đấu thầu, thực hiện các hợp đồng kinh tế lớn trong đấu giá đất đai, tài chính - ngân hàng, xuất khẩu, nhập khẩu, xây dựng khu công nghiệp, đô thị .v.v.

Điều đáng lo ngại hiện nay là hành vi tham nhũng không chỉ hoành hành ở lĩnh vực kinh tế mà còn len lõi vào cả các cơ quan bảo vệ pháp luật, ở cả những lĩnh vực vốn được coi trọng về đạo lý như: y tế, giáo dục, thực hiện chính sách xã hội, từ thiện nhân đạo... Tính phổ biến của tham nhũng đã được Đảng ta đánh giá trong Đại hội XII: “Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp, nhiều ngành, làm cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, gây bức xúc trong dư luận, là thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe dọa sự tồn vong của chế độ”(2).

Nguyên nhân dẫn đến trình trạng tham nhũng ở Việt Nam, gồm cả mặt khách quan và chủ quan. Nói tới chủ quan thì vấn đề ý thức chính trị, đạo đức, lối sống của con người là quan trọng. Thông thường, khi được giao trọng trách nào đó, người cán bộ, đảng viên được lựa chọn phải đáp ứng được những phẩm chất cần thiết. Khi thực hiện hành vi tham nhũng chính là các phần xấu trong con người đã lấn át phần tốt, biến họ trở thành con người khác. Đó là kết quả của sự tha hóa ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, là biểu hiện của “tự diễn biến, tự chuyển hóa”. Quá trình này diễn ra bên trong nên khó nhận biết ngay. Đối với nhiều kẻ tham nhũng, quá trình tha hóa bắt đầu từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Có thể khẳng định suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống là một trong những nguồn cội dẫn đến tham nhũng. Do đó, việc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống sẽ góp phần giảm thiểu, ngăn ngừa tệ nạn tham nhũng ở nước ta hiện nay.

Tại Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII), Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: “Trong Đảng có một bộ phận giảm sút về ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động, mất lòng tin, trong đó một số chịu ảnh hưởng của khuynh hướng cơ hội, xét lại, muốn đưa đất nước đi vào con đường khác; thậm chí đã có người phản bội, đầu hàng. Không ít cán bộ, đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân thực dụng cuốn hút, trở nên thoái hóa, hư hỏng. Tệ nạn tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, ăn chơi, phung phí tài sản của nhân dân rất nghiêm trọng và kéo dài”(3).

Các Đại hội VIII, IX, X, XI của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định tình trạng suy thoái là nghiêm trọng. Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa được đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn; một số rất ít cán bộ, đảng viên bị phần tử xấu lợi dụng, lôi kéo, kích động, xúi giục, mua chuộc đã có tư tưởng, việc làm chống đối Đảng, Nhà nước”(4).

Ngay từ Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, Đảng ta đã đề cập tới vấn đề suy thoái tư tưởng chính trị: “Trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng”(5). Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra 9 nhóm biểu hiện. Có thể thấy mức độ và tác hại của suy thoái tư tưởng chính trị như sau:

Một là, phai nhạt lý tưởng cách mạng, mơ hồ, dao động, hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, hoài nghi về năng lực lãnh đạo của Đảng, khả năng quản lý điều hành của Nhà nước đối với sự nghiệp đổi mới. Điều đáng lo ngại là ở số lượng không nhỏ cán bộ, đảng viên mắc phải và không dễ ngăn chặn và đẩy lùi.

Hai là, một số cán bộ, đảng viên đương chức có vai trò trong công tác nghiên cứu, tham mưu và thực tiễn ở các ngành, địa phương chưa thực sự thống nhất trên một số vấn đề cơ bản về quan điểm, chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, đã trở thành nhân tố khiến nhiều nghị quyết của Đảng chậm được đưa vào cuộc sống và hiệu quả thấp.

Ba là, không ít cán bộ, đảng viên, kể cả đương chức hay đã nghỉ hưu, tuy vẫn trung thành với Đảng, với chế độ, song lại thiếu bản lĩnh, thụ động, không dám đấu tranh với những tư tưởng sai trái hay những kẻ cơ hội. Số cán bộ, đảng viên này do ngại va chạm nên không dám bảo vệ quan điểm của Đảng, bảo vệ những ý kiến đúng đắn của người khác. Đây là nguyên nhân dẫn đến mất sức chiến đấu của Đảng từ cơ sở, làm quần chúng hoang mang, dao động, mất niềm tin.

Bốn là, một số cán bộ đảng viên do bất mãn cá nhân, cơ hội, tiếp tay cho thế lực thù địch, tuyên truyền quan điểm sai trái, độc hại. Một số khác, do nhận thức không đầy đủ, đúng đắn, bị các thế lực thù địch kích động đã ngấm ngầm, hoặc công khai phát tán tài liệu hoặc truyền bá những quan điểm sai trái.

Từ Đại hội VI, Đảng ta đã cảnh báo: “Vấn đề đạo đức xã hội đang được đặt ra một cách cấp bách. Trong xã hội ta đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai lối sống: lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động của mình, có ý thức tôn trọng và bảo vệ của công, chăm lo lợi ích của tập thể và của đất nước với lối sống thực dụng, dối trá, ích kỷ, ăn bám, chạy theo đồng tiền... Đã có lúc, có nơi, một đảng viên thụ động, bàng quan, bất lực trước sự lan tràn của những tin đồn nhảm, những dư luận ác ý, tê liệt trước sự tiến công của địch về tư tưởng”(6). Đến nay, tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống vẫn đang tiếp tục diễn ra trong Đảng, trực tiếp dẫn đến các hành vi tham nhũng. Nếu như trước đây chủ yếu là bớt xén, ăn cắp vặt, nhũng nhiễu để đòi tiền, mang tính chất cá nhân, đơn lẻ, thì nay chặt chẽ, tinh vi hơn, móc nối chằng chịt, trên dưới, trong ngoài để trục lợi với mức độ ngày càng nghiêm trọng.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống phía khách quan là tác động từ sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới và các mặt tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa, sự lợi dụng các phương tiện truyền thông hiện đại bởi các thế lực phản động, thù địch để xuyên tạc, bóp méo tình hình thực tế của Việt Nam, cổ xúy cho lối sống hưởng lạc, thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa, vị đồng tiền; do tác động tiêu cực của kinh tế thị trường; do tác động từ âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, đặc biệt là chiến lược diễn biến hòa bình.

Về phía chủ quan là công tác nghiên cứu lý luận còn bất cập, hiệu quả thấp. Việc luận giải con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, các quan điểm phát triển linh tế - xã hội thời kỳ quá độ, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, lý luận về xây dựng Đảng... còn hạn chế, chưa thực sự có sức thuyết phục. Công tác giáo dục chính trị, đạo đức, lối sống chưa được chú trọng đúng mức, hoạt động kém hiệu quả. Có biểu hiện xem nhẹ giáo dục lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp.

2. Các giải pháp chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống nhằm ngăn ngừa tham nhũng

Một là, tăng cường công tác lý luận và hiệu quả giáo dục chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên và quần chúng theo định hướng Đại hội XII của Đảng đặt ra.

Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng phục vụ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị, phù hợp với từng giai đoạn, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với từng đối tượng theo hướng cụ thể, thiết thực, hiệu quả”(7). Văn kiện Đại hội cũng nêu ra, đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng, thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương; tiếp tục đổi mới hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng.

Về tăng cường hiệu quả giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cần gắn chặt xây dựng và thực hành đạo đức trong Đảng với phòng, chống, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; triển khai sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân Chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15-5-2015 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; xác lập một hệ thống chế tài để thúc đẩy việc nêu gương của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan chính quyền, đoàn thể ở mọi lúc, mọi nơi; gắn việc xây dựng và thực hành đạo đức trong Đảng với đột phá về công tác tổ chức và cán bộ; tăng cường giáo dục lương tâm, danh dự, liêm sỉ trong Đảng, nhất là đối với các đảng viên có chức vụ thấm nhuần lời dạy của Hồ Chí Minh: “phải biết rằng tham lam là một điều rất đáng xấu hổ”; tham ô, tham nhũng là một tội ác với dân, với nước...

Hai là, đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ.

Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, có cơ chế kiểm soát quyền lực, khắc phục và ngăn chặn bằng được sự lạm quyền, lộng quyền và lợi dụng quyền lực, nhất là của một số cán bộ tham mưu, giúp việc về công tác tổ chức cán bộ; xử lý và thay thế kịp thời những cán bộ lãnh đạo, quản lý yếu về năng lực, giảm sút uy tín, trì trệ trong công tác, kém hiệu quả. Lựa chọn để bố trí đúng cán bộ, nhất là người đứng đầu, có đức, có tài, có bản lĩnh, có tâm huyết chống chạy chức, chạy quyền. Trong công tác cán bộ cần có chương trình hành động cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm trong từng thời gian, phù hợp với từng ngành, từng địa phương, đơn vị, nêu cao trách nhiệm của người đứng đầu ở mỗi cơ quan, đơn vị trong tổ chức thực hiện bảo đảm tính kế thừa và phát triển, chống cục bộ, bè phái.

 Xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong giai đoạn hiện nay là bảo vệ Cương lĩnh, Điều lệ Đảng; bảo vệ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; bảo vệ Hiến pháp và pháp luật; bảo vệ cán cán bộ, đảng viên về mặt chính trị...

Ba là, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước cùng với thực hiện dân chủ XHCN. Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả Nhà nước pháp quyền XHCN. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.

Bốn là, coi trọng công tác thanh tra, kiểm tra trong Đảng và Nhà nước, xử lý nghiêm minh, kịp thời những vi phạm. Trong đó, tập trung đổi mới, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng bảo đảm hiệu lực, hiệu quả; chú trọng kiểm tra, giám sát việc học tập, nghiên cứu quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng; việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, việc thực hiện quy định về những điều đảng viên không được làm; chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng. Đẩy mạnh công tác quán triệt, nghiên cứu các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, giúp cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nắm vững nguyên tắc, phương hướng, phương châm, thẩm quyền, thủ tục trong thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, tạo sự đoàn kết thống nhất, phát huy dân chủ trong Đảng, giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng; phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Kịp thời phát huy ưu điểm, uốn nắn, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên từ khi mới phát sinh, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn xảy ra vi phạm từ trong nội bộ, ngay từ cơ sở; đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình, mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm quản lý, kiểm tra, giám sát đảng viên; chủ động phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm những đảng viên có sai phạm. Thông qua công tác kiểm tra, giám sát, góp phần triển khai các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, chương trình, kế hoạch của cấp ủy các cấp đến từng đảng viên.

Năm là, kịp thời đấu tranh với những tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch. Trước hết cần phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; không ngừng đổi mới công tác tư tưởng, lý luận; chủ động ngăn chặn, nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch; kết hợp giữa đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ với kịp thời đấu tranh với những tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch.

Sáu là, gắn chặt đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền gắn với đấu tranh chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và ngược lại. Đảng ta chỉ rõ: “Tham nhũng và suy thoái về chính trị cũng như đạo đức đang trở thành vật cản lớn cho thành công của sự nghiệp đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ”(7). Cấp ủy các cấp phải thường xuyên rà soát, nắm chắc chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc quyền và xử lý nghiêm những trường hợp không bảo đảm về tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình bổ nhiệm, năng lực và hiệu quả công tác thấp, nhất là những trường hợp người nhà, người thân của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp. Đây là biện pháp rất cơ bản để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và là vấn đề sống còn của Đảng.

Tóm lại, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một trong những nguyên nhân dẫn đến tham nhũng. Vì vậy, đấu tranh chống suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống được xem là giải pháp trọng yếu ngăn ngừa, giảm thiểu tình trạng tham nhũng ở nước ta hiện nay. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó, cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp, từ đổi mới công tác lý luận, tăng cường hiệu quả giáo dục chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên và quần chúng đến đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước cùng với thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa; coi trọng công tác thanh tra, kiểm tra trong Đảng và Nhà nước, xử lý nghiêm minh, kịp thời những vi phạm; kịp thời đấu tranh với những tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch.

TS. Võ Thị Hoa, Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Việt Nam không cần và không chấp nhận đa Đảng


ĐẰNG SAU NHỮNG HOẠT ĐỘNG ĐÒI ĐA ĐẢNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LÀ GÌ?
Đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hoà bình” và tuyên truyền phá hoại cách mạng Việt Nam, trong những năm qua, các thế lực thù địch tập trung tung ra nhiều luận điệu đòi thực hiện đa đảng đối lập. Chúng phê phán Đảng Cộng sản Việt Nam không chịu đổi mới về chính trị, “không chịu thực hiện đa nguyên chính trị, giữ độc quyền lãnh đạo”(!); rằng ở Việt Nam “không có đa nguyên, đa đảng thì không bao giờ có dân chủ”(!). Chúng quy kết: “Độc tài, Đảng trị là cái gốc sai chính của nhà cầm quyền Việt Nam hiện tại”(!) và khuyên rằng “Đảng chỉ nên giữ vai trò lãnh đạo chính trị, không nên và không thể lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối”(!). Các thế lực thù địch đòi chúng ta phải sửa đổi Hiến pháp, xoá bỏ Điều 4, hiến định về Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo toàn xã hội.
Không chỉ dừng lại với những luận điệu trên, chúng còn thống kê, tổng hợp lại toàn bộ những sai lầm, thiếu sót cả về đường lối và chỉ đạo thực tiễn của Đảng trong quá khứ, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, quản lý xã hội để minh chứng cho sự cần thiết “chấm dứt vai trò lịch sử của Đảng”(!). Chúng ra sức khai thác, lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm của một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái biến chất, tham ô, tham nhũng, kích động nhằm tạo sự phân hóa sâu sắc trong Đảng, làm suy yếu sức mạnh khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng và giữa Đảng với nhân dân. Chúng hô hào, khuyến khích cải tổ, cải cách, đổi mới triệt để, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trắng trợn hơn, chúng đã ra sức xây dựng, nhen nhóm các tổ chức đảng đối lập phản động, như cái gọi là “Đảng Dân chủ”, “Đảng Dân chủ xã hội”, “Đảng Dân chủ tự do Thiên chúa giáo”, “Đảng Dân chủ tự do Phật giáo”...
Đằng sau tất cả những luận điệu tuyên truyền, hoạt động chống phá ấy, đều không ngoài mục đích hàng đầu và quan trọng nhất là làm suy yếu, đi đến phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, loại bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam ra khỏi tiến trình phát triển của dân tộc. Đó là mưu đồ hết sức thâm độc, nham hiểm và trắng trợn của các thế lực thù địch.
Ở VIỆT NAM KHÔNG CẦN VÀ KHÔNG CHẤP NHẬN CHẾ ĐỘ ĐA ĐẢNG!
Dựa trên cơ sở khoa học cả về lý luận và thực tiễn, cho phép chúng ta khẳng định dứt khoát rằng: Ở Việt Nam hiện nay không cần và không chấp nhận chế độ đa đảng!
Trước hết, dưới góc độ lý luận: Trong lịch sử, chế độ đa nguyên, đa đảng đã sớm xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII. Đây là thời điểm giai cấp tư sản đóng vai trò là lực lượng tiến bộ, tích cực đi tiên phong trong đấu tranh chống phong kiến, bảo vệ quyền bình đẳng của các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, phát triển quyền tự do, dân chủ tư sản. Cơ sở lý luận cho việc thực hiện đa nguyên, đa đảng chính là chủ nghĩa đa nguyên - một trường phái triết học xã hội tư sản do nhà triết học Đức Chiristian Woiff (1679-1754) đề xuất vào đầu thế kỷ XVIII. Chủ nghĩa đa nguyên phủ định tính thống nhất của thế giới, cường điệu cái riêng; phủ nhận sự phân chia xã hội thành giai cấp, phủ nhận đấu tranh giai cấp; chủ trương xây dựng một cơ chế quản lý xã hội theo nguyên tắc đa lực lượng, đa đảng phái và các tổ chức đảng phái này quan hệ với nhau theo nguyên tắc hiệp thương. Vì vậy, đây là một học thuyết phi mácxít. Nếu áp dụng quan điểm này vào chủ nghĩa xã hội sẽ dẫn tới hạ thấp vai trò của Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân thành một tổ chức tầm thường và nguy cơ phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Như thế, chủ nghĩa đa nguyên là sản phẩm của giai cấp tư sản với thế giới quan phi khoa học, trái với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong khi đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang và sẽ vẫn mãi xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Chính điều đó đã, đang và sẽ mãi bảo đảm cho Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng chính trị duy nhất tồn tại, vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Do vậy, ở Việt Nam không cần sự tồn tại của chủ nghĩa đa nguyên - một thứ cơ sở lý luận cho việc thực hiện chế độ đa đảng.
Thứ hai, trên phương diện thực tiễn: Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử; là ý nguyện của nhân dân Việt Nam. Điều này được lịch sử minh chứng rõ ràng. Vượt lên trên tất cả những hạn chế về đường hướng, phương pháp của những phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, phong trào cách mạng vô sản ở Việt Nam đã hướng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, do Nguyễn Ái Quốc truyền bá và phát triển mạnh mẽ. Đáp ứng đòi hỏi đó, trải qua quá trình được chuẩn bị chín muồi về chính trị, tư tưởng và tổ chức, ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và đã khẳng định lấy “chủ nghĩa Lênin làm cốt”. Đây là một tất yếu lịch sử và cũng từ đây, chấm dứt thời kỳ cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối, mở ra một thời đại mới cho lịch sử dân tộc.
Trong thời kỳ 1930 - 1945, lịch sử Việt Nam đã chứng minh, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam chứ không cần thêm bất cứ một tổ chức, đảng phái chính trị nào khác lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của công cuộc đấu tranh giành chính quyền mà đỉnh cao là Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc và đi lên chủ nghĩa xã hội - đó chính là công lao to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong những năm 1945-1946, do bối cảnh tình hình chính trị diễn biến phức tạp, ở Việt Nam, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn tồn tại một số đảng phái đối lập như Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam Cách mạng đồng minh hội..., nhưng trên thực tế, chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng. Các đảng phái, tổ chức đối lập thời kỳ này đã không vì lợi ích quốc gia, dân tộc mà âm mưu phá hoại cách mạng, xoá bỏ chính quyền cách mạng non trẻ, nên bị chính lịch sử và nhân dân ta loại bỏ.
Trong cuộc trường chinh 30 năm (1945-1975) kháng chiến giải phóng dân tộc khỏi ách xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, một lần nữa lịch sử và nhân dân lại lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ này, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam cũng tồn tại hai đảng khác là Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, cả hai đảng này chưa bao giờ đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, mà đều ủng hộ, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sau này hoàn toàn tự nguyện giải tán. Cũng trong thời gian này, còn có những đảng phái thân Pháp, thân Mỹ đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc và lợi ích của nhân dân lao động, nên cũng đã bị chính nhân dân ta đấu tranh loại bỏ.
Từ sau năm 1975 đến nay, nền chính trị nhất nguyên, với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng được củng cố, phát triển toàn diện, đã một lần nữa khẳng định tính tất yếu khách quan: Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà không cần sự tồn tại của nhiều đảng. Với bản lĩnh, trí tuệ, “là đạo đức, là văn minh”, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đưa nước ta từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, vượt qua khủng hoảng gay gắt về kinh tế - xã hội, trở thành một quốc gia đang phát triển hết sức năng động. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện; dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng; quốc phòng, an ninh được giữ vững; văn hoá, xã hội có nhiều bước phát triển; vị thế, uy tín của Việt Nam không ngừng được nâng cao trong khu vực và trên trường quốc tế. Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, đạt được những tiêu chí cao nhất trong hoạt động chính trị của một đảng cầm quyền (dù là chế độ đa đảng hay một đảng đều phải hướng tới vấn đề cốt tử nhất), đó là: chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng, văn hoá, xã hội phát triển bền vững, an sinh xã hội được bảo đảm. Chính thực tiễn này đã khẳng định, ở Việt Nam hiện nay không cần đa đảng và cũng đúng với nhận định của đồng chí Nguyễn Phú Trọng: “Ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách quan phải có chế độ đa đảng, ít nhất cho đến bây giờ”(1).
Một trong những luận điệu tuyên truyền được các thế lực thù địch tập trung tung hô, cổ suý nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay là đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập để “có dân chủ và phát triển”(!). Họ cho rằng: “Đa đảng là dân chủ, độc đảng là độc tài”(!); Việt Nam phải đa đảng đối lập để có dân chủ “thực sự”(!); “muốn thực sự có dân chủ cho người dân và phát triển xã hội phải thực hiện “đa nguyên, đa đảng””(!)... Chúng ta đều biết rằng, dân chủ là phạm trù lịch sử, xuất hiện khi có nhà nước và mỗi nền dân chủ phải gắn với một nhà nước nhất định, được pháp luật quy định. Dân chủ tuỳ thuộc vào sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Về điều này, C.Mác đã chỉ rõ: “Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế xã hội đó quyết định”(2). Trên thực tế, thể chế nhất nguyên một đảng lãnh đạo hoàn toàn không đồng nghĩa với mất dân chủ, kém phát triển và dân chủ, phát triển không đồng nghĩa với đa nguyên, đa đảng. Trên thế giới hiện nay, có không ít những nước đa đảng, nhưng vẫn mất dân chủ, vẫn là những nước nghèo, kém phát triển nhất; ngược lại, cũng có những nước chỉ một đảng lãnh đạo, nhưng dân chủ vẫn được bảo đảm, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống nhân dân sung túc. Điều đó minh chứng là: đa nguyên, đa đảng không phải là cứu cánh cho dân chủ và sự phát triển, đúng như đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Không phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng thì ít dân chủ hơn”(3).
Cũng từ thực tiễn lịch sử đã cho thấy, một điều hết sức đau xót đối với cách mạng thế giới, đó là sự đổ vỡ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên bang Xôviết và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào thập niên cuối của thế kỷ XX. Đặc biệt, ở Liên Xô, dưới tác động bởi những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, cùng với sự “phản bội” của một số người trong Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, đứng đầu là M.Gorbachev đã đưa tới tại Đại hội bất thường của các đại biểu nhân dân ngày 15-3-1990, quyết định xoá bỏ Điều 6 Hiến pháp Liên Xô, hiến định về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bắt đầu từ điểm mốc này, đã hình thành chế độ đa đảng ở Liên Xô, với sự ra đời của vô số các tổ chức, đảng phái chính trị, đối lập cạnh tranh vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, để rồi đưa tới một kết cục bi thảm: Đảng Cộng sản Liên Xô mất quyền lãnh đạo đất nước, chế độ xã hội chủ nghĩa được xây dựng trong hơn 70 năm hoàn toàn sụp đổ vào tháng 8-1991. Chính bài học thực tiễn đau xót này chỉ ra rằng, nếu hiện nay Việt Nam chấp nhận đa nguyên, đa đảng thì kết cục chắc chắn sẽ không khác gì như Liên Xô trước đây.
Cũng cần phải làm rõ hơn, các lập luận của những người muốn thực hiện đa đảng ở Việt Nam thường lấy “thực tiễn” ở các nước tư bản để minh chứng, dẫn tới một số người do thiếu hiểu biết nên đã ít nhiều tin vào những luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, mà lầm tưởng rằng cứ nhiều đảng cạnh tranh thì sẽ dân chủ hơn, xã hội phát triển hơn.
Hãy nhìn sang một số nước tư bản hiện nay, nhất là nước Mỹ với sự tồn tại của 112 đảng, nhưng chỉ có hai đảng (Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hoà) thay nhau cầm quyền. Tuy bề ngoài là chế độ đa đảng đối lập, nhưng xét về bản chất chỉ là một đảng - đảng của giai cấp tư sản. Vì thế, dù Đảng Dân chủ hay Đảng Cộng hoà nắm quyền, cũng đều là đảng của giai cấp tư sản, đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản; dân chủ ở Mỹ không gì khác là nền dân chủ tư sản, nền dân chủ chỉ dành cho một bộ phận thiểu số, một số ít người trong xã hội. Điều này cũng dễ hiểu tại sao ở Mỹ, bên cạnh “một xã hội” với những người có cuộc sống xa hoa, hào nhoáng thì vẫn còn tồn tại “một xã hội” hoàn toàn khác hẳn, gồm hàng chục triệu người phải sống trong sự bất công, thất nghiệp, đói nghèo, bệnh tật, không có quyền dân chủ... Chính người Mỹ, Paul Mishler - Giáo sư trường Đại học bang Indiana đã chỉ rõ nguyên nhân của tình trạng này: Mọi đói nghèo, thất nghiệp, thất học,v.v.. đều do lỗi của hệ thống, lỗi từ chủ nghĩa tư bản Mỹ gây ra; nước Mỹ tự xưng là đa đảng nhưng thực chất chỉ là một đảng, đó là đảng của chủ nghĩa tư bản, dù là Đảng Cộng hoà hay Dân chủ(4).
Như vậy, thực chất luận điểm “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” mang nặng tính chất mị dân, hết sức nguy hiểm, bởi rất dễ gây nên sự ngộ nhận, nhất là đối với những người có nhận thức hạn chế. Từ đó, có thể gây nên sự mơ hồ, lẫn lộn, dẫn tới sự dao động về tư tưởng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam; gây nên sự phân tâm trong xã hội; làm suy giảm và mất dần niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng từ những luận điểm này, đã hướng đến việc xoá bỏ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thiết lập nền dân chủ tư sản; nguy cơ gây nên những khó khăn trong quá trình phát triển của xã hội Việt Nam, nhất là làm cho chính trị - xã hội mất ổn định, kinh tế suy giảm, văn hoá đạo đức xuống cấp, các mâu thuẫn và xung đột xã hội sẽ gia tăng, phá vỡ khối đoàn kết dân tộc... Từ đó, chắc chắn hậu quả đối với đất nước sẽ vô cùng lớn, chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ đứng trước nguy cơ bị sụp đổ, thành quả cách mạng bao nhiêu năm có được sẽ tan vỡ; người dân không những không được dân chủ, mà xã hội cũng rơi vào rối loạn, khủng hoảng, trì trệ, không phát triển được.
Để không để xảy ra những hậu quả tai hại đó, ở Việt Nam hiện nay, nhất thiết không cần và không thể chấp nhận đa đảng đối lập như các thế lực thù địch mong muốn!

PGS.TS. Nguyễn Xuân Tú

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2019

Nâng cao bản lĩnh, trí tuệ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái

(ĐCSVN) – Đó là nhấn mạnh của đồng chí Lê Mạnh Hùng, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương tại buổi Tọa đàm “Nâng cao chất lượng bài viết phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên Tạp chí Tuyên giáo”, được tổ chức chiều 26/11, tại Hà Nội.

 Đồng chí Lê Mạnh Hùng - Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương phát biểu chỉ đạo tại Tọa đàm
Dự buổi Tọa đàm có đồng chí Hà Đăng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương; các đồng chí lãnh đạo các Báo, Tạp chí Trung ương; lãnh đạo một số tỉnh, thành ủy, Ban Tuyên giáo các tỉnh, thành ủy.
Góp phần tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tại buổi Tọa đàm, các đại biểu đã khẳng định, nhằm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, lực lượng báo chí nói chung, trong đó có Tạp chí Tuyên giáo đã và đang tập trung vào những nội dung: Đấu tranh phê phán, phản bác các luận điệu phủ nhận Chủ nghĩa Mác - Lênin; Đấu tranh phê phán, phản bác các luận điệu tấn công vào tư tưởng Hồ Chí Minh; Đấu tranh phê phán, phản bác, vạch trần các luận điệu chống phá quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; Đấu tranh phê phán, phản bác các luận điệu phủ nhận thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử dưới sự lãnh đạo của Đảng; Đấu tranh chống xuyên tạc lịch sử, phản bác các luận điệu “viết lại lịch sử”, hạ bệ thần tượng, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo cấp cao…
Ngoài những nội dung đấu tranh trực tiếp “chính diện”, việc tăng cường các bài viết lý luận - thực tiễn trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm khẳng định, phản ánh những kết quả, thành tựu trên mọi lĩnh vực của công cuộc đổi mới; coi trọng giá trị quyền con người, quyền công dân; nêu gương điển hình trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; kết quả đạt được trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực... đã tích cực góp phần vào đấu tranh phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Các đại biểu thảo luận tại Tọa đàm 
Các đại biểu cũng nêu lên những kinh nghiệm của các cơ quan, đơn vị, địa phương trong việc xây dựng, triển khai kế hoạch dài hạn, trung hạn và “phản ứng nhanh”; tổ chức viết bài, đặt bài; lựa chọn chủ đề, thể loại bài viết; xây dựng chuyên trang - chuyên mục - chuyên đề; công tác phối hợp tuyên truyền... trong đấu tranh phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; tuyên truyền nâng cao nhận thức, ý thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân… Các đại biểu cũng chia sẻ việc nắm bắt dư luận và tổ chức các tuyến tin, bài có chất lượng cao, với những hình thức phong phú trong các báo, tạp chí từ Trung ương tới các địa phương, tạo sức lan tỏa trong toàn xã hội…
Theo đồng chí Lê Huy Nam, Tổng Biên tập Tạp chí Tuyên giáo cho biết, tính từ đầu năm 2018 đến nay, Tạp chí đã đăng tải hơn 200 bài viết trực tiếp và gián tiếp tham gia đấu tranh phê phán, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch. Về cơ bản, tuyến bài về lĩnh vực này từng bước được nâng cao về số lượng và chất lượng. “Mật độ” bài viết trên cả hai ấn phẩm ngày càng đều, đầy đặn và bố trí hợp lý hơn; nội dung ngày càng hấp dẫn, thuyết phục hơn.
Phải có bản lĩnh, trí tuệ, dũng khí đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái
Phát biểu kết luận Tọa đàm, đồng chí Lê Mạnh Hùng nhấn mạnh, phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là một trong những lĩnh vực trọng yếu của công tác tư tưởng - văn hóa nhằm bảo vệ vững chắc chế độ và an ninh quốc gia. Đây là vấn đề không mới nhưng luôn mang tính thời sự, đòi hỏi sự vào cuộc tích cực, kiên quyết, kiên trì của cả hệ thống chính trị, trong đó có vai trò to lớn của các cơ quan báo chí - truyền thông. Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; do đó, nó phải được coi là một trong những nhiệm vụ trọng yếu nhất của báo chí cách mạng nói chung, Tạp chí Tuyên giáo nói riêng.
Đồng chí Lê Mạnh Hùng cho rằng, thực tiễn đã, đang đặt ra những vấn đề cơ bản cần phải giải quyết như: tư duy về phương thức tiến hành phê phán, phản bác lạc hậu đang mâu thuẫn với phương thức tuyên truyền, chống phá đa dạng, nhanh nhạy của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Việc tổ chức lực lượng tham gia viết bài còn hạn chế, thiếu gắn kết đang mâu thuẫn với yêu cầu “ứng chiến” kịp thời để phản bác quan điểm sai trái, thù địch. Chất lượng nội dung hạn chế, thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục đang mâu thuẫn với sự linh hoạt, phong phú, đa dạng của các luận điệu sai trái, thù địch.
Để nâng cao chất lượng bài viết trên lĩnh vực này, phải có bản lĩnh, trí tuệ, dũng khí đấu tranh, phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Cùng với tư duy nhạy bén, phẩm chất chính trị, đạo đức và “tay nghề” vững vàng của cán bộ lãnh đạo, phóng viên trong cơ quan báo chí, thì lực lượng cộng tác viên - nhất là các chuyên gia, nhà báo, những cây viết “già dặn” kinh nghiệm - là yếu tố quyết định đến chất lượng bài viết phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
“Sự ham chuộng của người đọc” phải được coi là thước đo trong nâng cao chất lượng bài viết. “Việc cải tiến hình thức các ấn phẩm tuy không là trọng tâm nhưng có tác dụng quan trọng tạo sự “hấp dẫn ban đầu” và gây hiệu ứng để người xem “chủ động, tự nguyện” tiếp cận với nội dung. Do đó, chú trọng nâng cao chất lượng nội dung phải đi cùng với cải tiến hình thức ấn phẩm” - đồng chí Lê Mạnh Hùng nhấn mạnh.
Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu, trong thời gian tới tiếp tục bám sát các nội dung chỉ đạo, định hướng của Ban Tuyên giáo Trung ương và cơ quan chức năng, đồng thời tăng cường hơn nữa tính chủ động trong triển khai tuyến bài liên quan đến phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần thực hiện tốt Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị.
 Tổng biên tập Tạp chí Tuyên giáo Lê Huy Nam phát biểu đề dẫn Tọa đàm
Trên cơ sở những kinh nghiệm, bài học cùng những vấn đề được nêu lên tại Tọa đàm này, Tạp chí Tuyên giáo cần tích cực, khẩn trương nghiên cứu để vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp, nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả nội dung phê phán, phản bác. Làm sao để vừa đảm bảo đúng tôn chỉ mục đích, chức năng nhiệm vụ, vừa “góp sức” cùng “binh chủng” báo chí cách mạng giành thắng lợi trên mặt trận đấu tranh tư tưởng. Bên cạnh đó, tận dụng ưu thế của mạng Internet và ấn phẩm Tuyên giáo điện tử để tạo sức lan tỏa, tạo sự tương tác với bạn đọc trong phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Nâng cao hơn nữa tính tiện ích để các bài viết lan tỏa đến công chúng nhanh hơn, rộng hơn.
Để tạo sự đồng bộ và lan tỏa, Tạp chí cần chú ý gắn kết và phối hợp với các cơ quan báo chí có thế mạnh trong lĩnh vực này; cần chú ý cân đối, đảm bảo tính tiếp nối, đan xen, bổ trợ lẫn nhau giữa các bài viết trên ấn phẩm in phát hành hàng tháng và ấn phẩm điện tử hằng ngày.
Dịp này, thay mặt Lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương, đồng chí Lê Mạnh Hùng cũng mong muốn và trân trọng đề nghị các đồng chí lãnh đạo ban, ngành, địa phương, các chuyên gia, nhà báo… tích cực cộng tác, tăng cường phối hợp thông qua viết bài, trao đổi, tương tác… góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả nội dung đấu tranh phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên Tạp chí Tuyên giáo./.
Hiền Hòa