Tìm kiếm

Thứ Tư, 30 tháng 11, 2022

TIẾP TỤC ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO, CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

Thứ Năm, 01/12/2022, 11:40



Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 17/11/2022, Hội nghị Trung ương 6 (khóa XIII) về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Ðảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới. Chúng tôi trân trọng giới thiệu toàn văn Nghị quyết.


I- TÌNH HÌNH


Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa X, phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị đã có nhiều đổi mới, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong tuyên truyền, vận động, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng được nâng cao. Bảo đảm thực hiện đúng cơ chế "Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ". Việc sắp xếp tổ chức bộ máy, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp ủy, tổ chức đảng được tăng cường, từng bước khắc phục tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Ðảng. Chất lượng đội ngũ cán bộ được nâng lên, việc phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ của Ðảng vào các vị trí lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ngày càng chặt chẽ. Công tác kiểm tra, giám sát được đẩy mạnh, góp phần siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Ðảng. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc của Ðảng được chú trọng. Ðã ban hành nhiều quy định, cơ chế để phát huy dân chủ, vai trò giám sát của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội và Nhân dân trong xây dựng Ðảng, xây dựng hệ thống chính trị. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo gắn với xây dựng, chỉnh đốn Ðảng đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực cầm quyền, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, hiệu quả của Ðảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị và trên các lĩnh vực phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Ðảng.


Tuy nhiên, đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hệ thống chính trị vẫn còn những hạn chế: Một số chủ trương, định hướng lớn của Ðảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng không khả thi. Chậm khắc phục tình trạng ban hành nhiều văn bản, một số văn bản còn chung chung, dàn trải, chậm bổ sung, sửa đổi, thay thế. Mô hình tổng thể của hệ thống chính trị chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu có nội dung chưa rõ; phân cấp, phân quyền chưa mạnh. Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa chú trọng công tác kiểm tra, giám sát; chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham mưu, giúp việc. Công tác tuyên truyền, giáo dục chưa tác động đến một số đối tượng, địa bàn... Chưa phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội và Nhân dân tham gia xây dựng Ðảng, xây dựng hệ thống chính trị. Cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc trong Ðảng chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.


Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế nêu trên là do: Nhận thức của một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hệ thống chính trị chưa đầy đủ, sâu sắc, thiếu thống nhất, đồng bộ trong quá trình tổ chức thực hiện. Năng lực cụ thể hóa và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng còn hạn chế, hiệu quả chưa cao. Chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc. Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, năng lực, phẩm chất, uy tín hạn chế, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật Nhà nước ảnh hưởng đến niềm tin của Nhân dân đối với Ðảng. Một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu chưa thực hiện nghiêm nguyên tắc của Ðảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; còn để xảy ra tình trạng cục bộ, mất đoàn kết, bao biện, làm thay, áp đặt, lạm dụng quyền lực, né tránh, sợ trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo.


II- QUAN ÐIỂM, MỤC TIÊU


1. Quan điểm


- Ðổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Ðảng phải kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Ðảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ; làm rõ hơn nữa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, gắn với nêu cao trách nhiệm của tổ chức và cá nhân, nhất là người đứng đầu; giữ vững sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, kỷ luật, kỷ cương; bảo đảm nguyên tắc quyền lực đi đôi với trách nhiệm, mọi cán bộ, đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, nguyên tắc và kỷ luật của Ðảng.


- Phải chủ động, tích cực, có quyết tâm chính trị cao, đồng thời cần thận trọng, có bước đi vững chắc; vấn đề đã rõ thì kiên quyết đổi mới, vấn đề cần thiết nhưng chưa rõ, còn ý kiến khác nhau thì phải nghiên cứu, thí điểm, không nóng vội nhưng cũng không bỏ qua hoặc để chậm, ảnh hưởng đến sự phát triển; kế thừa, phát huy những thành tựu, kết quả, kinh nghiệm tốt trong phương thức lãnh đạo của Ðảng đã được thực tiễn chứng minh là đúng. Ở mỗi cấp, mỗi lĩnh vực phải vừa quán triệt các nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo của từng cấp, từng lĩnh vực và của từng loại hình cơ quan nhà nước, từng tổ chức chính trị-xã hội.


- Phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn trong tổ chức thực hiện, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu sắc về đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng trong điều kiện mới, triển khai thực hiện đồng bộ các phương thức lãnh đạo của Ðảng. Ðẩy mạnh đổi mới, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức, cán bộ; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động; phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; đồng thời, đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Ðảng từ Trung ương tới cơ sở.


2. Mục tiêu


- Tạo chuyển biến mạnh mẽ, thực chất trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hệ thống chính trị, bảo đảm hiệu quả, thiết thực, sát thực tiễn, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo toàn diện của Ðảng trong giai đoạn mới. Giữ vững nguyên tắc của Ðảng, đồng thời phát huy sự chủ động, sáng tạo của các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị.


- Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng, nhất là thể chế hóa, cụ thể hóa thành luật và các văn bản dưới luật; tạo chuyển biến thực sự, đạt kết quả cao trong thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng ở các cấp. Ðề cao trách nhiệm của tập thể, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gắn với kiểm soát quyền lực chặt chẽ.


- Xây dựng phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cấp ủy, tổ chức đảng, thực sự khoa học, dân chủ, sát với thực tiễn; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ðảng thông suốt từ Trung ương đến cơ sở.


Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới ảnh 1

III- NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP


1. Ðổi mới, nâng cao chất lượng ban hành và tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao chủ trương, đường lối của Ðảng


- Ðổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành văn bản của Ðảng theo hướng đồng bộ, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, tính dự báo cao, bám sát thực tiễn. Chỉ ban hành văn bản mới khi thật sự cần thiết. Ðối với những văn bản quan trọng, tác động sâu rộng, trước khi ban hành cần lấy ý kiến của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị-xã hội, cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên. Tiếp tục hoàn thiện quy định về ban hành văn bản của Ðảng; khắc phục tình trạng ban hành văn bản không sát với thực tiễn, nội dung chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu tính khả thi, không rõ trách nhiệm, thiếu nguồn lực tổ chức thực hiện.


- Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng, bảo đảm đạt hiệu quả cao với các biện pháp chủ yếu như: Tổ chức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân nghiên cứu, học tập quán triệt chủ trương, đường lối của Ðảng; xây dựng chương trình, kế hoạch để triển khai thực hiện phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và điều kiện cụ thể của cơ quan, đơn vị, địa phương; tập trung nghiên cứu, thể chế thành luật và các văn bản dưới luật; xây dựng các quy định, quy chế của Ðảng; tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình tổ chức thực hiện; đổi mới cách thức thông tin, báo cáo kết quả thực hiện của địa phương, đơn vị. Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy, tổ chức đảng thường xuyên lãnh đạo, định hướng, cho chủ trương đối với những vấn đề lớn, mới, phức tạp, nhạy cảm trong quá trình tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng hoặc cho chủ trương thí điểm một số nội dung cần thiết.


- Nâng cao chất lượng tham mưu văn bản của các cơ quan tham mưu, giúp việc của Ðảng, nhất là trong tham mưu chiến lược, hoạch định chủ trương, đường lối; hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát thực hiện các chủ trương, đường lối của Ðảng.


- Tập trung lãnh đạo các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị thực hiện tốt các nội dung sau:


Ðối với Quốc hội: Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Ðổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội trong thực hiện chức năng lập pháp, giám sát tối cao, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Ðặc biệt coi trọng xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trọng tâm; chống tiêu cực, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ trong xây dựng pháp luật. Phát huy dân chủ, pháp quyền, hiện đại, chuyên nghiệp, khoa học; nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, nhất là đại biểu hoạt động chuyên trách, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


Ðối với Chính phủ: Tập trung lãnh đạo xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch, hiệu quả; tăng cường quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đồng bộ, thống nhất. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, làm rõ hơn nữa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng tổ chức, cá nhân trong bộ máy hành chính, cải cách hành chính, đi đôi với nâng cao năng lực thực thi và tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực, bảo đảm Chính phủ thực sự là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.


Ðối với các cơ quan tư pháp: Lãnh đạo tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của tòa án nhân dân, xác định việc lãnh đạo đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động tòa án nhân dân các cấp là trọng tâm trong lãnh đạo cải cách tư pháp; viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra, thi hành án, bổ trợ tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp; xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.


Ðối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội: Lãnh đạo đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng; thực hiện tốt vai trò đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên, hội viên và Nhân dân; nâng cao chất lượng các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, hoạt động giám sát, phản biện xã hội; xây dựng và chỉnh đốn tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên; làm cầu nối vững chắc giữa Ðảng với Nhân dân.


2. Ðổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động


- Ðổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên và Nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước bảo đảm thiết thực, phù hợp với từng đối tượng. Chú trọng tiếp thu ý kiến góp ý, phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội và Nhân dân trong thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng, nhất là những vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn. Phát huy vai trò của cơ quan báo chí, truyền thông, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên trong công tác tuyên truyền, đi đôi với việc đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ số.


- Nâng cao trách nhiệm, tính tự giác, gương mẫu của các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức, cán bộ, đảng viên trong thực hiện và vận động thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng, kịp thời biểu dương, tôn vinh những tấm gương tiêu biểu, nhân tố mới, điển hình tiên tiến. Chú trọng định hướng chính trị, tư tưởng; tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, kiên quyết đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch; tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.


- Thực hiện tốt quy định của Ðảng, pháp luật của Nhà nước về dân chủ ở cơ sở và Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, nhất là công tác dân vận của các cơ quan nhà nước với phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, lấy quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân làm trung tâm trong thực hiện quy chế và pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Tiếp tục đổi mới công tác tuyên truyền, vận động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội, tăng cường sự đồng thuận, hưởng ứng tham gia của Nhân dân, góp phần thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối của Ðảng.


3. Ðổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức, cán bộ


3.1. Về tổ chức bộ máy


- Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổng thể tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, vận hành thông suốt cơ chế "Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ". Chú trọng lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.


- Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của đảng đoàn, ban cán sự đảng từ Trung ương đến địa phương đáp ứng yêu cầu lãnh đạo của Ðảng, phù hợp với thực tiễn. Ðẩy mạnh phát triển tổ chức cơ sở đảng, nhất là trong khu vực ngoài nhà nước và ở xã, phường, thị trấn, thôn, tổ dân phố; sắp xếp hợp lý tổ chức đảng ở địa phương, tổ chức đảng theo ngành dọc bảo đảm yêu cầu lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và xây dựng Ðảng. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của các loại hình tổ chức đảng. Nghiên cứu mô hình tổ chức đảng của các cơ quan dân cử và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phù hợp với tính chất hoạt động.


- Nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng trong chấp hành, thực hiện có hiệu quả các chủ trương của Ðảng liên quan đến tổ chức bộ máy; tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của từng cơ quan, tổ chức; khắc phục tình trạng trùng lặp, chồng chéo, bỏ sót hoặc không rõ chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực quản lý. Phân cấp, phân quyền hợp lý, rõ ràng giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Khắc phục tình trạng cấp dưới hỏi cấp trên việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình hoặc cấp trên trả lời chung chung không rõ trách nhiệm khi có vướng mắc… Hoàn thiện cơ chế bảo đảm kiểm soát quyền lực trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, nhất là trong các cơ quan quản lý nhà nước, những lĩnh vực quan trọng, nhạy cảm, dễ lạm dụng quyền lực.


- Thực hiện nghiêm chủ trương của Ðảng về công tác quản lý biên chế của hệ thống chính trị, tinh giản biên chế theo vị trí việc làm, có trọng tâm, trọng điểm gắn với nâng cao chất lượng, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Ðến năm 2025, cơ bản hoàn thiện xây dựng vị trí việc làm trong từng cơ quan, tổ chức, làm cơ sở để xác định tổng biên chế của hệ thống chính trị giai đoạn 2026 - 2031.


3.2. Về công tác cán bộ


- Bảo đảm nguyên tắc Ðảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Ðảng trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, xem xét, phân công, giới thiệu cán bộ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị và thông qua đội ngũ cán bộ để lãnh đạo thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng chú trọng lựa chọn, bố trí cán bộ đủ tiêu chuẩn để bầu vào cấp ủy, chức danh lãnh đạo của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị-xã hội các cấp; lãnh đạo việc bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm theo quy định của pháp luật, điều lệ của các tổ chức.


- Hoàn thiện quy định lựa chọn, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ của các cấp ủy, tổ chức đảng theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch, bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện quy định. Tổng kết việc thí điểm thi tuyển một số chức danh lãnh đạo, quản lý. Thực hiện nghiêm quy định của Ðảng về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền. Tiếp tục hoàn thiện các quy định về cơ chế tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, trách nhiệm người đứng đầu trong công tác cán bộ, nhất là trong đánh giá, giới thiệu, bổ nhiệm cán bộ.


- Tiếp tục cụ thể hóa, thực hiện có hiệu quả chủ trương của Ðảng về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ; các chủ trương, quy định liên quan đến công tác cán bộ như tiêu chuẩn chức danh, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, chế độ, chính sách; tăng cường phân cấp, phân quyền trong quản lý cán bộ.


- Xây dựng cơ chế, chính sách thu hút, tuyển dụng nhân tài vào làm việc trong hệ thống chính trị; thể chế chủ trương của Ðảng về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; sửa đổi chính sách, pháp luật để liên thông cán bộ từ cấp xã tới cấp huyện, cấp tỉnh. Khuyến khích cán bộ từ chức khi có khuyết điểm; kịp thời thay thế cán bộ bị kỷ luật, cán bộ năng lực hạn chế, uy tín giảm sút mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm; kiên trì thực hiện "có vào, có ra, có lên, có xuống" trong công tác cán bộ. Tổ chức thực hiện nghiêm kết luận của Bộ Chính trị về chủ trương bố trí công tác đối với cán bộ sau khi bị kỷ luật, góp phần bảo đảm kỷ cương, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, Nhân dân đối với Ðảng và chế độ.


- Khắc phục hạn chế, yếu kém, hình thức trong đánh giá cán bộ. Ðánh giá cán bộ phải toàn diện, chặt chẽ, thực chất, khách quan, nhiều chiều cùng với phẩm chất, bản lĩnh chính trị, ý thức, trách nhiệm, uy tín trong tập thể, trong Nhân dân, phải đặc biệt chú trọng kỹ năng công tác, chất lượng, hiệu quả công việc được giao, bằng sản phẩm, kết quả cụ thể; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, địa phương. Thường xuyên cảnh báo, nhắc nhở giúp cán bộ nhận diện nguy cơ, không mắc sai lầm, kịp thời khắc phục khuyết điểm. Xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu khi để cấp phó, cán bộ dưới quyền trực tiếp tiêu cực, tham nhũng. Thực hiện nghiêm quy định của Ðảng về việc lấy phiếu tín nhiệm trong lãnh đạo cấp ủy, các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, minh bạch. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm là cơ sở quan trọng cho việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ. Phát huy vai trò của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị-xã hội và Nhân dân trong giám sát việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ và giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ các cấp.


- Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cơ quan tham mưu, giúp việc của Ðảng ở các cấp, nhất là cán bộ tham mưu cấp chiến lược có đủ bản lĩnh, phẩm chất, trình độ, năng lực, kinh nghiệm, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Ðảng.


4. Ðổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát


- Tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Ðảng. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tham mưu, giúp việc của Ðảng trong kiểm tra, giám sát các hoạt động thuộc lĩnh vực được giao. Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Ðảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra của Nhà nước.


- Thực hiện hiệu quả Chiến lược kiểm tra, giám sát của Ðảng đến năm 2030. Chú trọng kiểm tra, giám sát việc cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Ðảng; tổ chức thực hiện nghị quyết đại hội đảng các cấp; thực hiện kết luận kiểm tra của cấp ủy, tổ chức đảng. Thường xuyên kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trong công tác cán bộ và vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên.


- Ðổi mới phương pháp, quy trình, nâng cao kỹ năng kiểm tra, giám sát, bảo đảm khách quan, dân chủ, khoa học, đồng bộ, thống nhất, thận trọng, chặt chẽ. Thực hiện giám sát mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm; chủ động phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên từ sớm, từ xa, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn. Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi dễ xảy ra vi phạm, nơi có nhiều bức xúc, dư luận quan tâm, các lĩnh vực dễ phát sinh vi phạm. Xử lý kiên quyết, nghiêm minh, kịp thời tổ chức đảng, đảng viên sai phạm.


- Nghiên cứu quy định phân cấp thẩm quyền kiểm tra, giám sát của các cấp ủy đảng, ủy ban kiểm tra các cấp. Xây dựng cơ chế chỉ đạo, điều phối, khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lặp, hình thức, kém hiệu quả trong các hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán. Thực hiện tốt việc kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán.


- Tập trung xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp theo hướng liêm chính, chuyên nghiệp hơn.


5. Phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên


- Hoàn thiện quy định và đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, góp phần lan tỏa trong xã hội những hành động tốt, tấm gương tiêu biểu của cán bộ, đảng viên.


- Các cấp ủy, tổ chức đảng chú trọng nâng cao năng lực, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đảng viên; nêu cao tinh thần tự giác, tự kiểm tra, tự phê bình và phê bình trong việc chấp hành chủ trương, đường lối của Ðảng, tuân thủ pháp luật, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức. Ðồng thời, nêu cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong việc vận động gia đình, người thân xây dựng lối sống gương mẫu.


- Mọi đảng viên phải gương mẫu, nói đi đôi với làm, thực hiện nghiêm Ðiều lệ Ðảng, chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phục tùng tuyệt đối sự phân công của Ðảng; giữ mối liên hệ mật thiết với Nhân dân; học tập, rèn luyện, nâng cao năng lực, phẩm chất, lối sống; giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Ðảng.


- Kịp thời khen thưởng tập thể, cá nhân đảng viên tiêu biểu, gương mẫu. Phát hiện, chấn chỉnh hành vi thiếu gương mẫu của cán bộ, đảng viên; xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên sai phạm.


6. Ðẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Ðảng từ Trung ương tới cơ sở


- Ðổi mới phong cách, phương pháp công tác, lề lối làm việc bảo đảm khoa học, dân chủ, sâu sát, cụ thể. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, quy định chặt chẽ nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ, quy trình công tác, khắc phục tình trạng bao biện, làm thay, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, áp đặt hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng.


- Hoàn thiện quy định về ban hành văn bản của Ðảng bảo đảm khoa học, thực tiễn, hệ thống, chặt chẽ. Rà soát, phát hiện, khắc phục những nội dung còn chồng chéo, mâu thuẫn trong các văn bản của Ðảng đã ban hành, hủy bỏ những văn bản không còn phù hợp. Hoàn thiện quy định về việc tổ chức thực hiện và sơ kết, tổng kết chủ trương, đường lối của Ðảng. Tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung, cách thức tổ chức hội nghị của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp.


- Ðổi mới, nâng cao chất lượng học tập, quán triệt chủ trương, đường lối của Ðảng theo hướng mở rộng đối tượng tham gia, hình thức linh hoạt, phù hợp, tăng cường hội nghị chuyên đề trên các lĩnh vực. Sử dụng hài hoà hình thức trực tuyến với trực tiếp và tuyên truyền miệng; phát huy vai trò của cấp ủy trong việc tổ chức học tập, quán triệt chủ trương, đường lối của Ðảng tại cấp mình.


- Thực hiện có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, khách quan, toàn diện, công tâm, công khai, minh bạch, chính xác, chống cục bộ, địa phương, bè phái.


- Ðẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương; mở rộng hình thức họp trực tiếp kết hợp với trực tuyến; giảm hội họp không cần thiết. Xây dựng cơ sở dữ liệu tổ chức cơ sở đảng, đảng viên và văn kiện của Ðảng, kết nối từ Trung ương tới cơ sở. Xây dựng và áp dụng tiêu chí, chỉ số đánh giá hiệu quả, chất lượng hoạt động của các cơ quan, tổ chức như quản trị công, cải cách hành chính, chỉ số hài lòng của cán bộ, đảng viên, người dân, làm cơ sở để nâng cao chất lượng, cải tiến phong cách, lề lối làm việc, cải cách hành chính.


- Tiếp tục đổi mới công tác thông tin, báo cáo trong Ðảng, bảo đảm nhanh, chính xác, kịp thời, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin.


IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN


1. Bộ Chính trị ban hành Kế hoạch thực hiện Nghị quyết; lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ, kịp thời, hiệu quả, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của cả hệ thống chính trị về đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hệ thống chính trị.


2. Các tỉnh ủy, thành ủy, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy, cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương cụ thể hóa Nghị quyết bằng chương trình, kế hoạch, đề án để tổ chức triển khai thực hiện.


3. Ðảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan bảo đảm đồng bộ, thống nhất, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Ðảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới.


4. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội ở Trung ương ban hành quy định, hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện theo yêu cầu của Nghị quyết.


5. Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền sâu rộng về nội dung Nghị quyết và kết quả thực hiện Nghị quyết.


6. Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thường xuyên theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết, định kỳ sơ kết, tổng kết báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư./.

VẬN DỤNG LUẬT BIỂN 1982 ỨNG PHÓ THÁCH THỨC TRÊN BIỂN

Thứ Năm, 01/12/2022, 11:30


Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982, bản Hiến pháp của biển và đại dương, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc ứng phó với các thách thức đang nổi lên trên biển.


Chiều ngày 30/11, Hội thảo lần thứ tư của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) về vận dụng Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 và các văn kiện pháp lý quốc tế khác trong ứng phó với các thách thức đang nổi lên trên biển đã được Bộ Ngoại giao phối hợp với Liên minh châu Âu (EU), Australia, New Zealand đồng tổ chức tại Hà Nội.



Tiếp nối thành công của chuỗi 3 hội thảo cùng chủ đề được tổ chức trong các năm 2019 và 2021 tại Hà Nội, hội thảo lần này tạo ra diễn đàn hấp dẫn, thu hút nhiều chuyên gia, học giả có uy tín và các quan chức các nước thành viên ARF nhằm trao đổi, thảo luận về cách thức hợp tác, giải quyết các thách thức trong quản lý biển tại khu vực, trên cơ sở vận dụng và thực thi Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982) và các văn kiện pháp lý quốc tế liên quan. Tham dự Hội thảo có khoảng gần 200 đại biểu từ 27 quốc gia thành viên ARF, các tổ chức quốc tế và khu vực, cơ quan đại diện ngoại giao, viện nghiên cứu và các bộ, ngành, theo hình thức trực tuyến và trực tiếp.


Phát biểu khai mạc hội thảo, Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Minh Vũ đánh giá cao và một lần nữa khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của UNCLOS 1982 - bản Hiến pháp của biển và đại dương, nhất là trong bối cảnh nổi lên ngày càng nhiều thách thức trong việc giải quyết các vấn đề trên biển, yêu cầu hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng hơn. Trợ lý Bộ trưởng cho rằng công ước sẽ là cơ sở quan trọng để các quốc gia trong khu vực tăng cường lòng tin, thúc đẩy các hợp tác vì hòa bình, an ninh và thịnh vượng. Trợ lý Bộ trưởng nhấn mạnh mọi tranh chấp và các vấn đề liên quan đến biển và đại dương trong khu vực cần được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS 1982. Hội thảo lần thứ 4 này là một bước tiến thể hiện cam kết của khu vực trong hợp tác quốc tế để giải quyết các thách thức liên quan đến biển và đại dương.


Chia sẻ quan điểm với Việt Nam, các đồng chủ tọa là Phó trưởng Phái đoàn EU tại Việt Nam, Đại biện lâm thời Đại sứ quán Australia tại Hà Nội và Trưởng SOM ARF của New Zealand cũng đề cao vai trò và giá trị của Công ước Luật biển và cảm ơn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã đăng cai tổ chức chuỗi hội thảo này. Bà Georgina Roberths, Trưởng SOM ARF của New Zealand nêu bật giá trị của biển và đại dương đối với hòa bình, an ninh và sự phát triển của khu vực, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982. Ông Thomas Wiersing, Phó trưởng Phái đoàn EU tại Việt Nam nhấn mạnh vai trò dẫn dắt của ASEAN trong việc thúc đẩy hòa bình và ổn định tại khu vực. Bên cạnh đó, EU cũng ủng hộ việc nhanh chóng hoàn thành thương lượng Bộ quy tắc ứng xử tại biển Đông (COC) có giá trị thực chất và ràng buộc về mặt pháp lý.


Cùng khẳng định vai trò dẫn dắt của ASEAN trong việc xây dựng khu vực hòa bình, an ninh, ổn định và thịnh vượng, Đại biện lâm thời Đại sứ quán Australia tại Hà Nội, ông Mark Tattersall cũng đề cao vai trò quan trọng của diễn đàn ARF trong đối thoại về an ninh và hợp tác tại khu vực Ấn Độ Đương - Thái Bình Dương. Ông Mark Tattersall cũng đánh giá cao hội thảo lần này, với phạm vi thảo luận bao trùm nhiều lĩnh vực từ vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học biển tại vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia đến vấn đề các lò phản ứng hạt nhân nổi trên biển, hay việc phân định biển trong bối cảnh nước biển dâng… và sự tham gia của các học giả, chuyên gia luật biển hàng đầu của khu vực và trên thế giới.


Trong ngày làm việc đầu tiên, các đại biểu thảo luận về hai chủ đề chính bao gồm quyền và nghĩa vụ được quy định trong UNCLOS 1982 và các văn kiện pháp lý liên quan; các thách thức truyền thống và mới nổi trong quá trình thực thi Công ước. Các phát biểu đều đề cao giá trị toàn diện của UNCLOS 1982 trong suốt 40 năm qua, nhấn mạnh đây là công cụ pháp lý quan trọng nhất để gìn giữ hòa bình, ổn định trong khu vực cũng như tạo khuôn khổ thúc đẩy hợp tác xử lý các vấn đề truyền thống và mới nổi trên biển và đại dương trong khu vực.


Dự kiến trong ngày làm việc thứ hai, hội thảo sẽ tập trung thảo luận về các nỗ lực hợp tác quốc tế hướng đến sử dụng bền vững và bảo tồn biển, đại dương bao gồm việc thương lượng văn kiện pháp lý quốc tế về đa dạng sinh học biển trong vùng biển nằm ngoài vùng tài phán quốc gia; quyền tài phán về tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế; thích nghi với biến đổi khí hậu và các cơ quan nghề cá khu vực.


MINH HÒA

Thứ Ba, 29 tháng 11, 2022

THỦ TƯỚNG TIẾP ĐOÀN ĐẠI BIỂU GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM.

 Thứ Tư, 30/11/2022, 08:51


Giáo hội Phật giáo Việt Nam luôn là tổ chức tôn giáo gắn đạo với đời, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, chung tay xây dựng đất nước thịnh vượng. Đây là khẳng định của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại buổi tiếp đoàn Đại biểu lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam diễn ra chiều tối 29/11 tại Trụ sở Chính phủ.


Phát biểu ý kiến tại buổi gặp mặt, Thủ tướng Phạm Minh Chính bày tỏ rất vui mừng được đón tiếp Đoàn đại biểu Giáo hội Phật giáo Việt Nam tới thăm, làm việc với Lãnh đạo Chính phủ. Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước và với tình cảm cá nhân, Thủ tướng chúc mừng Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tổ chức thành công Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IX, nhiệm kỳ 2022 - 2027.


Thủ tướng nêu rõ, qua gần hai nghìn năm hiện diện, Phật giáo đã hội nhập, đồng hành và hòa vào đời sống xã hội Việt Nam, trở thành một thành tố quan trọng trong nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá cao lòng yêu nước, tôn chỉ, mục đích hướng thiện và những đóng góp tích cực của Phật giáo, của tăng, ni, phật tử trong cả nước vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người khẳng định: "Phật giáo Việt Nam luôn luôn gắn bó với dân tộc trong mọi cuộc thăng trầm của đất nước”. Thủ tướng nêu rõ, Phật giáo ngày càng phát triển, là một trong những tôn giáo lớn ở Việt Nam với hơn 18.500 cơ sở thờ tự, gần 55.000 tăng, ni và trên 14 triệu người đã quy y tam bảo. Hệ thống Giáo hội Phật giáo gồm 3 cấp hành chính từ Trung ương đến tỉnh, quận, huyện, thị xã.


Phật giáo có nhiều đóng góp quan trọng trong công cuộc “Hộ Quốc, an Dân”; nhiều nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc mà tên tuổi, sự nghiệp gắn liền với đạo Phật. Từ các triều đại Đinh, Tiền Lê đến triều Lý, triều Trần, bên cạnh các bậc minh quân luôn có các vị cao tăng phò vua, giúp nước. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhiều tăng, ni, cư sĩ, phật tử đã tham gia kháng chiến, nhiều vị đã anh dũng hy sinh vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Trong những năm qua, với phương châm “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, tiếp nối dòng chảy của Phật giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã vượt mọi khó khăn, không ngừng phát triển, lớn mạnh về mọi mặt. Giáo hội đã luôn đi đầu trong các phong trào thi đua yêu nước, đoàn kết các tôn giáo, khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa đạo pháp và dân tộc, hết lòng phấn đấu vì cuộc sống tốt đẹp, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.


Thủ tướng cũng rất chia sẻ với những khó khăn, thách thức mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam phải đối diện trong nhiệm kỳ qua. Mặc dù vậy, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Thường trực Hội đồng Chứng minh, Ban Thường trực Hội đồng Trị sự đã điều hành linh hoạt, sáng tạo các hoạt động Phật sự của Giáo hội, đạt được nhiều kết quả hết sức tích cực, góp phần quan trọng vào thành công chung của cả nước trong phòng, chống đại dịch Covid-19, phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội.


Thủ tướng khẳng định, Giáo hội đã khẳng định vai trò tích cực trong hoạt động xây dựng chính quyền từ Trung ương tới cơ sở. Quốc hội Nhiệm kỳ khóa XV có 4 đại biểu (Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm, Hòa thượng Thích Thanh Quyết, Thượng tọa Thích Đức Thiện và Thượng tọa Lý Minh Đức); Giáo hội ngày càng nâng cao vị thế, vai trò trong hoạt động quốc tế, tham gia sáng lập và là thành viên của nhiều tổ chức Phật giáo thế giới; tổ chức thành công nhiều sự kiện Phật giáo quốc tế ở Việt Nam như Hội nghị Ni giới thế giới (2009), 3 lần tổ chức Đại lễ Vesak Liên hợp quốc (2008, 2014 và 2019); tích cực tham gia các hoạt động cứu trợ nhân đạo quốc tế…


Giáo hội đã làm được nhiều việc ích đời, lợi đạo, thực hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam, vận động tăng, ni, phật tử trong cả nước tích cực tham gia các hoạt động an sinh xã hội, cùng chung tay trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, vận động cứu trợ nhân đạo, giúp đỡ người già neo đơn, trẻ em mồ côi, khuyết tật, những người yếu thế trong xã hội với số tiền hàng nghìn tỷ đồng (Nhiệm kỳ 2017-2021 đã quyên góp được hơn 7.000 tỷ đồng).


Đặc biệt, trong cuộc chiến phòng, chống đại dịch Covid-19 vừa qua, hưởng ứng lời kêu gọi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội và các cấp, các ngành, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cùng toàn thể tăng, ni, phật tử cả nước điều chỉnh các hoạt động tôn giáo phù hợp tình hình dịch bệnh, đóng góp sức người, vận động quyên góp vật chất, chung tay cùng chính quyền chống dịch, bảo vệ sức khỏe cộng đồng… Hàng nghìn tăng, ni, phật tử đã tình nguyện xung phong lên tuyến đầu phòng, chống dịch; ủng hộ nguồn kinh phí lớn cho Quỹ vaccine, hỗ trợ mua trang thiết bị y tế, trao tặng hàng chục triệu phần quà và suất ăn miễn phí...


Tất cả những điều đó thể hiện rõ, Giáo hội Phật giáo Việt Nam luôn là tổ chức tôn giáo gắn đạo với đời, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Thủ tướng ghi nhận, trân trọng và cảm ơn những đóng góp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho xã hội và cho đất nước, cho 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Thủ tướng khẳng định, những kết quả đã đạt được của Nhiệm kỳ Đại hội VIII của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã góp phần quan trọng vào thành công chung của đất nước ta thời gian qua, nhất là trong năm 2022. Thủ tướng tin tưởng và mong muốn Giáo hội Phật giáo Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hòa thượng Đệ Tứ Pháp chủ sẽ có một nhiệm kỳ mới với nhiều thành công; hoạt động và phát triển theo định hướng “Kỷ cương - Trách nhiệm - Đoàn kết - Phát triển” mà Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IX đã đề ra. Thủ tướng trân trọng đề nghị các quý vị chư tôn giáo phẩm lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam quan tâm, tập trung chỉ đạo Giáo hội một số nội dung sau:


Thứ nhất, tiếp tục vận động tăng, ni, phật tử thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy tinh thần "Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng".


Thứ hai, tiếp tục là tổ chức tôn giáo đi đầu trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Đến nay, nước ta có hơn 26,5 triệu tín đồ tôn giáo, chiếm 27% dân số cả nước với 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau được Nhà nước công nhận. Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng đoàn kết tôn giáo vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân.


Thứ ba, tiếp tục củng cố và phát huy truyền thống “Hộ Quốc, an Dân” của Phật giáo Việt Nam với tinh thần "Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội". Bên cạnh đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh ngoại giao nhân dân, qua đó khẳng định tinh thần hội nhập của Phật giáo, của dân tộc Việt Nam. Giáo hội Phật giáo Việt Nam phát huy những thành quả đã đạt được, tích cực, chủ động hội nhập, thông qua các diễn đàn tôn giáo thế giới để quảng bá đất nước, văn hóa, con người Việt Nam; khẳng định chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người.


Thủ tướng nhấn mạnh, chúng ta tin tưởng rằng, Giáo hội Phật giáo Việt Nam với tinh thần từ bi, trí tuệ và phương châm “sống tốt đời, đẹp đạo”, tiếp tục phát huy vai trò, sứ mệnh quan trọng trong đấu tranh với cái xấu, điều ác; thúc đẩy đoàn kết; phát huy các giá trị cao đẹp; nỗ lực làm việc tốt, điều thiện; ngày càng phát huy giá trị dân tộc, con người Việt Nam, chung tay xây dựng đất nước hòa bình, thịnh vượng, nhân dân được ấm no, tự do, hạnh phúc.


Thủ tướng chúc nhiệm kỳ IX của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đạt được nhiều thành công hơn nữa; chúc Hòa thượng Pháp chủ, Hòa thượng Chủ tịch cùng toàn thể quý vị giáo phẩm lãnh đạo Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam luôn mạnh khỏe, tinh tấn, an lạc và mọi điều tốt đẹp nhất.


THANH PHONG

HỢP TÁC QUỐC TẾ ỨNG PHÓ HIỆU QUẢ HỢ VỚI NHỮNG THÁCH THỨC AN NINH TOÀN CẦU

 

Thứ Tư, 30/11/2022, 08:47


Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an nhấn mạnh như vậy trong bài phát biểu ghi hình trực tuyến tại Lễ khai mạc Diễn đàn Hợp tác An ninh cộng đồng toàn cầu lần thứ nhất ngày 29/11.


Ngày 29/11, Đoàn đại biểu Bộ Công an Việt Nam do Thượng tướng Lương Tam Quang, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an làm Trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn Hợp tác An ninh cộng đồng toàn cầu lần thứ nhất. Diễn đàn được tổ chức theo hình thức trực tuyến, thu hút sự tham gia của hơn 40 lãnh đạo các cơ quan thực thi pháp luật các nước, tổ chức quốc tế.


Tại Diễn đàn, Bộ trưởng Tô Lâm đã có bài phát biểu ghi hình trực tuyến quan trọng

Bộ trưởng Tô Lâm phát biểu tại Lễ khai mạc Diễn đàn.


Diễn đàn Hợp tác an ninh cộng đồng toàn cầu kế thừa giá trị cốt lõi của sự hợp tác an ninh, nỗ lực thúc đẩy và làm sâu sắc hợp tác an ninh cộng đồng giữa các quốc gia, kiên trì dựa vào an ninh phổ biến để đảm bảo cùng phát triển, dựa vào phát triển bền vững để thúc đẩy an ninh bền vững.


Chủ đề của Diễn đàn năm nay xoay quanh bốn nội dung: hợp tác, sáng tạo, pháp trị, cùng thắng, để tiến hành thảo luận.


Trong bài phát biểu, Bộ trưởng Tô Lâm nêu rõ, Việt Nam hoan nghênh chủ trương các Cơ quan An ninh, Cảnh sát, Nội vụ các nước và các tổ chức phòng, chống tội phạm quốc tế cần đoàn kết, chia sẻ thông tin, thúc đẩy đối thoại trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, tăng cường hợp tác cùng có lợi trên nguyên tắc tuân thủ luật pháp quốc tế và các chuẩn mực chung nhằm duy trì hòa bình, ổn định khu vực và thế giới.

Thứ trưởng Lương Tam Quang và Đoàn đại biểu Bộ Công an Việt Nam tham dự Diễn đàn.


Bộ trưởng Tô Lâm đề nghị các bên thống nhất nhận thức, xây dựng lòng tin chiến lược và hoàn thiện khuôn khổ hợp tác giữa các nước về giải quyết các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống làm cơ sở cho hợp tác quốc tế có hiệu quả trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc.


“Đặc biệt, các nước cần đi đầu, phát huy vai trò trách nhiệm, thực sự phối hợp với nhau và với cộng đồng quốc tế, dẫn dắt hợp tác quốc tế ứng phó hiệu quả hơn với những thách thức an ninh toàn cầu cấp bách hiện nay. Tăng cường hợp tác về phòng ngừa, ứng phó với các mối đe dọa thông qua cơ chế và phương thức đa tầng, đa dạng, linh hoạt, trong khuôn khổ đa phương, song phương và hợp tác giữa các quốc gia có chung đường biên giới”, Bộ trưởng Tô Lâm nhấn mạnh.


Bộ trưởng Tô Lâm cũng đề nghị thiết lập cơ chế hợp tác cụ thể, hiệu quả và tăng cường chia sẻ thông tin giữa các nước cả ở cấp quốc gia và giữa các cơ quan chuyên ngành của mỗi nước, qua đó giúp phát hiện sớm và chủ động phòng ngừa, ứng phó có hiệu quả hơn với các mối đe dọa an ninh.


Bộ trưởng Tô Lâm nêu rõ: “Thiết lập cơ chế hợp tác hiệu quả và tăng cường chia sẻ thông tin. Hợp tác chia sẻ thành tựu khoa học công nghệ, đào tạo nhân lực và huy động nguồn lực tài chính phục vụ cho phòng ngừa và ứng phó với các mối đe dọa an ninh. Hỗ trợ lẫn nhau đào tạo nguồn nhân lực để nâng cao khả năng ứng phó với các thách thức, đe dọa an ninh trong khu vực và trên thế giới”.



Khổng Hà



 TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, ĐIỀU HÀNH CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC ĐỘNG VIÊN QUỐC PHÒNG

Thứ Ba, 29/11/2022, 19:31



Động viên quốc phòng gồm tổng thể các hoạt động, biện pháp xây dựng và huy động mọi nguồn lực của đất nước hoặc một số địa phương cho nhiệm vụ quốc phòng, tạo sức mạnh tổng hợp, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.


Đây là giải pháp cơ bản, xuyên suốt, quan trọng hàng đầu, quyết định đến kết quả xây dựng và huy động nguồn lực động viên, phát huy sức mạnh tổng hợp của đát nước, các tổ chức, cá nhân tham gia công tác động viên quốc phòng.


Để thực hiện giải pháp này, cần đổi mới nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của cấp ủy đảng, hệ thống chính trị, nhất là vai trò của tổ chức đảng trong các bộ, ngành Trung ương, địa phương đối với nhiệm vụ xây dựng và huy động nguồn lực động viên cho quốc phòng; nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền giáo dục nhiệm vụ động viên đến cán bộ, đảng viên và Nhân dân; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp trong sạch, vững mạnh, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng; phân công trách nhiệm cho từng cán bộ, đảng viên, cấp ủy viên chịu trách nhiệm theo dõi, chỉ đạo từng nội dung, từng lĩnh vực cụ thể về công tác động viên quốc phòng.


Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hoàn thiện cơ chế, chính sách động viên quốc phòng; đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát thực hiện nhiệm vụ động viên quốc phòng; đồng thời, tăng cường sự quản lý, điều hành của Nhà nước thông qua việc nâng cao chất lượng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về động viên quốc phòng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước thông qua hoạt động quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền các cấp; coi trọng hoàn thiện và thực thi chính sách động viên quốc phòng.


Nâng cao chất lượng giáo dục chấp hành pháp luật động viên quốc phòng cho các đối tượng. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác động viên quốc phòng. Củng cố, tăng cường hệ thống công cụ, phương tiện quản lý nhà nước về động viên quốc phòng, cải cách hành chính, đầu tư thích đáng cho công tác xây dựng, huy động nguồn lực động viên. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và công tác phối hợp của các cơ quan Nhà nước trong xây dựng và huy động nguồn lực động viên quốc phòng.


Phát huy sức mạnh tổng hợp của các ban, Bộ, ngành Trung ương, địa phương và hệ thống chính trị, nhằm huy động cao nhất vai trò, trách nhiệm, khả năng của các tổ chức và Nhân dân trong thực hiện công tác động viên quốc phòng. Động viên cho quốc phòng là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị.


Do đó, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các bộ, ngành Trung ương, địa phương, tổ chức, cơ quan, đơn vị trong xây dựng kế hoạch động viên quốc phòng trên cơ sở kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; chủ động tổ chức, chuẩn bị chu đáo, toàn diện công tác động viên quốc phòng ngay từ thời bình, làm cơ sở để huy động kịp thời mọi nguồn lực của đất nước đáp ứng yêu cầu từng trạng thái quốc phòng.


Kết hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành Trung ương, địa phương trong xây dựng và huy động nguồn lực động viên. Trong đó, Bộ Quốc phòng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính đóng vai trò trung tâm, nòng cốt.


Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách là cơ sở pháp lý cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, cá nhân thực hiện nhiệm vụ động viên quốc phòng đúng pháp luật, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước về xây dựng và huy động các nguồn lực động viên cho quốc phòng. Hiện nay, hệ thống các văn bản pháp luật, cơ chế vận hành, các chính sách bảo đảm cho công tác động viên quốc phòng đã được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và ban hành khá đầy đủ. Tuy nhiên, các yếu tố chi phối đến công tác động viên quốc phòng luôn vận động phát triển không ngừng, những quy định của pháp luật và chính sách đang vận dụng có những quy định không còn phù hợp trong thực tiễn.


Vì vậy, các ban, Bộ, ngành Trung ương, địa phương và các tổ chức có liên quan cần tiếp tục chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách động viên quốc phòng. Trong đó, tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh; đầu tư xây dựng các nguồn lực động viên, cơ chế hoạt động của các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương, các tổ chức, doanh nghiệp trong động viên quốc phòng.


Quá trình thực hiện, cần chủ động rà soát, nghiên cứu các văn bản, chính sách hiện hành; tổ chức đánh giá cụ thể mức độ phù hợp của từng văn bản, chính sách và những hạn chế, bất cập, không còn phù hợp với quy định pháp luật so với hoạt động thực tiễn đặt ra cho công tác động viên quốc phòng. Cơ quan chuyên môn phối hợp với các cơ quan chức năng liên quan, nghiên cứu, đề xuất, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, bảo đảm phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ động viên quốc phòng trong tình hình mới./.


THANH LOAN



 NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO VIÊN ĐỂ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC  


Thành phố Hồ Chí Minh luôn xác định phát triển, xây dựng đội ngũ giáo viên có chất lượng sẽ là tiền đề tiên quyết để đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Ðây là động lực quan trọng góp phần đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển của xã hội và hội nhập quốc tế.

 

Với mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, Trường trung học phổ thông Lương Thế Vinh, quận 1 đã chủ động kết hợp Trường đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Giáo dục để được tiếp cận và thực nghiệm sách giáo khoa mới, sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học... Nhờ đó, giáo viên được chuẩn bị tâm thế sẵn sàng, an tâm khi giảng dạy theo chương trình giáo dục phổ thông mới. Cô Bùi Minh Tâm, Hiệu trưởng Trường trung học phổ thông Lương Thế Vinh cho biết: Ðể bồi dưỡng, phát triển năng lực cho đội ngũ giáo viên, Ban Giám hiệu nhà trường đã tạo điều kiện để giáo viên tham gia đầy đủ các chương trình tập huấn của bộ, ngành. Ðặc biệt, nhà trường tổ chức nhiều buổi tập huấn thiết thực cho việc phát triển năng lực chuyên môn của giáo viên như: Tập huấn về công tác chủ nhiệm, về phương pháp dạy học tích cực; nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi, hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học; nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, giáo dục giá trị sống; chia sẻ kinh nghiệm dạy học trực tuyến... Qua đó, giáo viên được học tập, trao đổi kinh nghiệm, được truyền cảm hứng và phát triển năng lực để có thể tích cực đổi mới giảng dạy và giáo dục.

 

Xác định phát triển đội ngũ giáo viên với cơ cấu hợp lý, có chất lượng sẽ là động lực quan trọng để đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, Trường tiểu học Tân Sơn Nhì thường xuyên tổ chức nhiều chuyên đề về phương pháp dạy học tích cực, các kỹ năng, kỹ thuật dạy học, kỹ năng vận dụng công nghệ thông tin trong dạy học đáp ứng việc chuyển đổi số trong giáo dục. Hiệu trưởng Trường tiểu học Tân Sơn Nhì Mai Thị Kim Phượng chia sẻ: Trường đã tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị công nghệ thông tin đáp ứng nhu cầu sử dụng của cán bộ, giáo viên và học sinh, sử dụng các thiết bị công nghệ thông tin, các phần mềm làm công cụ hỗ trợ dạy và học. Trường tạo điều kiện cho tất cả cán bộ quản lý, giáo viên tham gia và tích cực hoàn thành tốt học tập, bồi dưỡng các module chương trình giáo dục phổ thông 2018; chú trọng kết hợp dạy chữ với dạy người, giáo dục ý thức, trách nhiệm của công dân đối với gia đình-nhà trường-xã hội cho học sinh…

 

Trong những năm qua, ngành giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều nỗ lực đầu tư cho giáo dục, nhờ vậy đã không ngừng phát triển toàn diện cả về quy mô, cơ sở vật chất, chất lượng giảng dạy. Hiện, mạng lưới trường lớp ở các ngành học, bậc học được phủ khắp 322 phường, xã, 21 quận, huyện và thành phố Thủ Ðức với quy mô ngày một tăng, đáp ứng cơ bản trường lớp cho học sinh học tập. Ðội ngũ nhà giáo được xây dựng bảo đảm về số lượng và không ngừng nâng cao chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy học ngày một cao hơn. Giám đốc Sở Giáo dục và Ðào tạo Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Hiếu nhấn mạnh: Những năm qua, thành phố giữ vững kết quả phổ cập giáo dục các cấp học và bậc học, phát triển hệ thống giáo dục đa dạng, xây dựng xã hội học tập. Hằng năm, thành phố xây thêm nhiều trường học, phòng học mới, ưu tiên trang bị cơ sở vật chất, thiết bị dạy-học, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập của học sinh. Thành phố cũng tạo điều kiện triển khai nhiều chế độ, chính sách đặc thù thu hút đội ngũ giáo viên cho ngành, triển khai hiệu quả nhiều đề án, chương trình có tính đột phá, làm tiền đề nhân rộng cho cả nước. Ðặc biệt, thành phố đã tiên phong thực hiện các chương trình, đề án đột phá nhằm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hướng đến trình độ quốc tế.

 

Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, giáo dục Việt Nam được định hình theo một số hướng đi cụ thể như: Gắn việc dạy và học với thực tiễn, đa dạng hóa các lộ trình giáo dục, khuyến khích học tập suốt đời, đẩy mạnh dạy và học ngoại ngữ, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong học tập và quản lý, nâng cao năng lực và mở rộng vai trò của các trường đại học. Trên cơ sở này, ngành giáo dục thành phố tiếp tục phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, tích cực tìm kiếm và áp dụng những mô hình có tính đột phá để nâng cao chất lượng đào tạo, trong đó, tập trung nâng cao chất lượng giáo viên, củng cố mạng lưới trường lớp, tăng cường cơ sở vật chất bảo đảm chất lượng các hoạt động giáo dục và đào tạo; chuẩn bị xây dựng chương trình, kế hoạch xây dựng xã hội học tập trong kỷ nguyên số; chú trọng tăng cường năng lực tiếng Anh cho người dạy và người học thông qua việc triển khai thực hiện có hiệu quả đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2017-2025; tạo lập môi trường tiếng Anh trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, đại học, nghề nghiệp; thu hút học sinh, sinh viên quốc tế và giáo viên, giảng viên quốc tế học tập, giảng dạy; đồng thời, tăng cường các chương trình giáo dục, đào tạo được giảng dạy bằng tiếng Anh... ./.

 

MINH HÀ

Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2022

NHẬN DIỆN CÁC THỦ ĐOẠN LỪA ĐẢO 

 Thứ Hai, 28/11/2022, 07:27.


Liên minh chống lừa đảo toàn cầu (GASA) mới đây đã công bố một báo cáo về tình trạng lừa đảo trực tuyến trên toàn cầu. Theo báo cáo này, số vụ lừa đảo trực tuyến đang bùng nổ mạnh thời gian gần đây. Trong đó, riêng số vụ lừa đảo trực tuyến trên toàn cầu trong năm 2021 là 266 triệu vụ, tăng 90%.



Đáng chú ý, các cuộc tấn công lừa đảo trực tuyến tại Việt Nam đang gia tăng và ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn. Thực tế trên đòi hỏi cần sớm có các giải pháp đồng bộ để bảo vệ người dùng trên không gian mạng.


Tỉnh táo để tránh “sập bẫy” lừa đảo trực tuyến


Theo các chuyên gia về an ninh mạng, “thủ đoạn” lừa đảo trực tuyến phổ biến là đối tượng chiếm quyền kiểm soát tài khoản Facebook, Zalo… của bị hại, sau đó sử dụng tài khoản này để nhắn tin đề nghị người thân, bạn bè chủ tài khoản chuyển tiền, nạp thẻ điện thoại theo hướng dẫn và bị chiếm đoạt.


Thủ đoạn thứ hai là nhắn tin thông báo người bị hại đã trúng giải thưởng có giá trị lớn, yêu cầu đóng góp ủng hộ quỹ người nghèo, tàn tật bằng cách chuyển tiền vào tài khoản chúng cho trước hoặc mua thẻ điện thoại chuyển thông tin cho các đối tượng sau đó bị chiếm đoạt tiền. Thủ đoạn thứ ba là đăng tin tuyển dụng trên Facebook và dụ dỗ nạn nhân trở thành cộng tác viên bán hàng, sau đó yêu cầu nạn nhân phải bỏ ra một số tiền nhất định để mua hàng trên các sàn thương mại như Shopee, Lazada...


Khi mua hàng, đánh giá sản phẩm, nạn nhân sẽ được thanh toán tiền hàng và trả thêm phần trăm hoa hồng. Sau đó, các đối tượng sẽ thực hiện hai kịch bản: một là chiếm đoạt luôn số tiền mua hàng của nạn nhân và xóa liên hệ; hai là chúng sẽ chuyển một khoản tiền hoa hồng nhỏ cho nạn nhân để tạo niềm tin, sau đó khi có những đơn hàng lớn hơn, nạn nhân đã nhận hàng thì các đối tượng này sẽ “bùng” tiền và chặn liên hệ.


Ngoài ra, do mạng xã hội ngày càng phổ biến rộng rãi lại có nhiều đặc điểm như ẩn danh, liên kết được nhiều quốc gia... Vì vậy, thủ phạm của các chiêu trò lừa đảo qua mạng không chỉ là những đối tượng trong nước mà còn là những đối tượng lừa đảo xuyên quốc gia. Trong đó, kịch bản lừa đảo phổ biến mà các đối tượng sử dụng là kết bạn Facebook, Zalo… để làm quen, tiếp cận “con mồi”.


Sau một thời gian trò chuyện và tạo được niềm tin từ phía nạn nhân, các đối tượng ngỏ ý muốn chuyển tiền mặt về làm quà. Sau đó, chúng tiếp tục giả làm nhân viên ngân hàng thông báo nạn nhân có bưu phẩm gửi từ nước ngoài về và yêu cầu nạn nhân phải chuyển trước một số tiền để đóng thuế, phí, tiền vận chuyển. Ngay sau khi nạn nhân thực hiện yêu cầu, chúng sẽ chiếm đoạt toàn bộ số tiền này và xóa liên hệ.


Để tránh “sập bẫy” lừa đảo trực tuyến, các chuyên gia của Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng, Cục An toàn thông tin, Bộ TT&TT khuyến cáo người dùng cần tuân thủ 3 nguyên tắc.


Thứ nhất, “hãy chậm lại” khi kẻ lừa đảo luôn nhắn tin, gọi điện với giọng cấp bách, yêu cầu bạn phải hành động ngay, chuyển tiền ngay.


Thứ hai là “kiểm tra tại chỗ”. Nếu nhận cuộc gọi không mong muốn, xưng là công an, cảnh sát, nhân viên ngân hàng… ngay lập tức điện thoại trực tiếp tới cơ quan công an, ngân hàng, tổ chức tài chính đó để xác minh thông tin.


Và nguyên tắc thứ ba là “dừng lại”, không gửi, chuyển tiền, nếu bạn thấy giao dịch nghi ngờ.


Bên cạnh đó, người dùng cần cẩn trọng khi nhận được các đường link hoặc file qua Facebook, Zalo. Bởi lẽ về nguyên tắc, khi nạn nhân bị lừa bấm vào link dẫn tới trang web độc hại, dù chưa thao tác gì tại website đó, thế nhưng về mặt kỹ thuật, kẻ xấu có thể đã cài đặt được mã độc lên thiết bị của nạn nhân. Khi đó, hacker đủ quyền để kiểm soát máy tính, đánh cắp dữ liệu và các thông tin về tài khoản. Do đó, không nên truy cập vào các đường link không rõ nguồn gốc hoặc có nghi ngờ về độ an toàn của đường link đó. Thường xuyên thay đổi mật khẩu cho các tài khoản mạng xã hội như Facebook, Zalo... nhằm mục đích tăng tính bảo mật cho tài khoản.


Thực tế cho thấy, nếu để mật khẩu quá dễ đoán hoặc quá lâu sẽ không đảm bảo được tính bảo mật, khi đó các đối tượng sẽ lợi dụng sự sơ hở này để xâm nhập vào tài khoản mạng xã hội và thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Riêng đối với những công việc làm cộng tác viên cho các gian hàng thương mại điện tử như Lazada, Shopee, Tiki... cần kiểm tra rõ các thông tin về hàng hóa và đơn vị cung cấp thông qua nhiều nguồn khác nhau để kiểm chứng tính chính xác. Đồng thời, không chuyển tiền đặt cọc theo yêu cầu nếu như chưa xác định được phía tuyển dụng có uy tín hay không...


Sẽ xây dựng cơ sở dữ liệu chống lừa đảo trực tuyến quốc gia


Để chống lại các vụ lừa đảo này, thời gian qua, nhiều cơ quan, tổ chức tại Việt Nam đã đưa ra các sáng kiến nhằm giúp người dùng tìm kiếm và báo cáo khi phát hiện các gian lận trực tuyến. Đáng chú ý có thể kể đến web dauhieuluadao.com (Dấu hiệu lừa đảo) do Google hợp tác cùng Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia (NCSC), Cục An toàn thông tin, Bộ TT&TT xây dựng. Website cung cấp các tình huống lừa đảo điển hình giúp người dùng nhận biết các phương thức lừa đảo rất phổ biến hiện nay cũng như các "nguyên tắc vàng" trong hành xử để tự ngăn chặn.


Mới đây, dưới sự chứng kiến của lãnh đạo Bộ TT&TT, lần đầu tiên một liên minh về an toàn, an ninh mạng với sự tham gia của 10 đơn vị, thành viên đã được thành lập và hoạt động chính thức tại Việt Nam. Trong đó, Cục An toàn thông tin và Hiệp hội An toàn thông tin Việt Nam (VNISA) có vai trò chủ trì điều phối, định hướng các hoạt động chung của Liên minh. Sứ mệnh của liên minh là thúc đẩy hợp tác giữa các cơ quan nhà nước, hiệp hội và doanh nghiệp nhằm nâng cao nhận thức và phổ biến kỹ năng cơ bản để đảm bảo an toàn thông tin cho người dân khi tham gia sử dụng mạng. Từ đó Liên minh giúp tạo dựng không gian mạng Việt Nam an toàn, giảm thiểu sự cố mất an toàn thông tin và tích cực thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội số.


Ông Nguyễn Vũ Anh-Tổng Giám đốc Cốc Cốc, một thành viên của Liên minh cho biết, vấn đề đảm bảo an toàn an ninh mạng cho người dùng hay xây dựng một Internet "xanh" luôn là nhiệm vụ hàng đầu. Các thành viên Liên minh cam kết, cùng chung tiếng nói, tích cực và trách nhiệm đóng góp để chung tay tạo "khiên chắn" giúp người dân lên mạng an toàn.


Chia sẻ thêm về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Huy Dũng cho biết, Bộ TT&TT xác định năm 2022 là năm bảo vệ người dân trên không gian mạng. Vì vậy, Bộ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng triển khai nhiều biện pháp quyết liệt. Trong 10 tháng đầu năm, các đơn vị chức năng đã chặn 2.063 website vi phạm, trong đó có 1.255 website lừa đảo; bảo vệ 3,8 triệu người dân (gần 6% người dùng internet) trước các cuộc tấn công lừa đảo trực tuyến, vi phạm pháp luật trên không gian mạng.


Tới đây, Bộ TT&TT sẽ xây dựng Cơ sở dữ liệu chống lừa đảo lực tuyến quốc gia để các tổ chức, cá nhân có thể truy vấn, khai thác, đóng góp dữ liệu chống lừa đảo trực tuyến kịp thời; cung cấp các công cụ tự kiểm tra và bảo vệ an toàn thông tin trên không gian mạng. Đồng thời, Bộ TT&TT sẽ ưu tiên thúc đẩy phát triển các ý tưởng, giải pháp an toàn thông tin mạng sáng tạo xuất sắc, phục vụ lợi ích quốc gia và bảo vệ người dân trên không gian mạng.


THANH LOAN

KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH CHỐNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC TỰ DO INTERNET Ở VIỆT NAM 

 Thứ Hai, 28/11/2022, 07:25.


Từ khi thành lập nước đến nay, Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam luôn nhất quán quan điểm bảo đảm mọi điều kiện cho sự phát triển toàn diện của người dân, trong đó có quyền tự do thông tin, tự do internet. Bất chấp thực tế đó, các thế lực phản động, thù địch thường dùng luận điệu “phản biện xã hội”, đấu tranh vì “dân chủ, nhân quyền”, xây dựng “xã hội dân sự”, để xuyên tạc Việt Nam “không có tự do ngôn luận, tự do Internet”. 



Thực tế đòi hỏi cần phải có cơ chế phối hợp quyết liệt, hiệu quả giữa các bộ, ban, ngành, địa phương trong việc nhận diện, giải thích, làm rõ, phản bác các thông tin sai lệch bảo vệ hình ảnh đất nước, nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.


Cơ hội và thách thức


Trong những năm gần đây, mạng xã hội đã trở nên phổ biến vào cuộc sống hàng ngày của hầu hết người Việt Nam cùng với tỷ lệ sử dụng điện thoại thông minh và internet ngày càng tăng của Việt Nam. Nhờ có dân số trẻ, hiểu biết về kỹ thuật số và có tính kết nối cao, Việt Nam đã nằm trong số các quốc gia có số lượng người dùng mạng xã hội cao nhất trên toàn thế giới.


Kể từ khi xuất hiện, việc sử dụng các mạng này đã được mở rộng từ việc giữ liên lạc với bạn bè và gia đình trở thành công cụ mạnh mẽ được các thương hiệu sử dụng để tiếp cận người tiêu dùng của họ cả trong nước và quốc tế. Các phương tiện truyền thông trên internet như báo điện tử, website, blog, thư điện tử, mạng xã hội… tại Việt Nam hiện nay đã đóng góp vào sự phát triển trên các lĩnh vực, thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa Việt Nam và thế giới. Đặc biệt với sức lan tỏa nhanh mạng xã hội đã trở thành kênh thông tin không thể thiếu trong đời sống xã hội hiện nay, nhất là giới trẻ.


Do độ tương tác cao, giao tiếp thuận lợi nên người dùng mạng xã hội có thể chia sẻ thông tin và tương tác trực tuyến với nhau một cách dễ dàng và nhanh chóng. Mặt khác, nhờ đa dạng về không gian và thời gian, người dùng có thể truy cập tham gia mạng xã hội ở bất kỳ đâu mà ở đó có dịch vụ internet với cách thức rất đa dạng.



Tuy nhiên, mạng xã hội là trang thông tin mở, các hình ảnh, video, clip, bài viết, tin tức… được lưu hành và chia sẻ chính là nội dung của mạng xã hội và do chính các thành viên tự sáng tạo ra. Càng nhiều người sử dụng những thông tin trên mạng xã hội thì mạng xã hội càng trở thành kho lưu trữ nội dung khổng lồ, trong khi việc thực hiện giám sát, kiểm duyệt nội dung, chất lượng những thông tin trên mạng xã hội hiện nay còn hạn chế, hầu như phụ thuộc vào trình độ nhận thức, quan điểm của mỗi người tham gia chia sẻ với nhau.


Do tính đặc thù nên việc kiểm soát thông tin trên mạng xã hội là không dễ, các nguồn thông tin đúng, sai khó bề kiểm chứng; tốc độ phát tán rộng rãi, nhanh chóng thông qua rất nhiều hình thức khác nhau. Nếu một thông tin không đúng sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm cá nhân hay tổ chức, hình ảnh nhạy cảm, phản cảm… sẽ gây tác động tiêu cực đến nhiều người. Mạng xã hội hiện đã trở thành môi trường tiềm năng, không gian lý tưởng cho các thế lực thù địch và đối tượng xấu lợi dụng để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật.


Do đó giữ cho không gian mạng lành mạnh, không ô nhiễm là nhiệm vụ của cả người dùng và cơ quan quản lý. Đến nay, hầu hết các quốc gia đều nhận thức được xu thế phát triển và tầm quan trọng của internet trong kỷ nguyên thông tin đối với sự phát triển xã hội, và đều có những chính sách phù hợp để khai thác thế mạnh của internet phục vụ cho lợi ích quốc gia, dân tộc.


Nhận diện hoạt động lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do internet chống phá Việt Nam


Ngày nay, bên cạnh những tác động tích cực nhiều mặt thúc đẩy sự phát triển xã hội, những tác động tiêu cực của thông tin sai trái, độc hại trên internet ngày càng gia tăng phức tạp. Không phải ngẫu nhiên mà các chuyên gia máy tính đã nhận định “Thế kỷ XXI là thế kỷ của tội phạm mạng” và “Chiến tranh mạng đã là nguy cơ hiện hữu”.


Khác với các hành vi vi phạm pháp luật truyền thống, hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực internet xâm hại tới rất nhiều quan hệ xã hội, nhiều lĩnh vực khác nhau như: ngân hàng, quân sự, an ninh, thương mại hay lĩnh vực văn hóa, như: giả mạo trong thương mại điện tử, giả mạo trong thanh toán ngân hàng, phá hoại, các loại tấn công làm tê liệt các dịch vụ máy chủ, tấn công làm tắc nghẽn đường truyền, virus, đánh cắp mật khẩu, đổi tên miền và địa chỉ IP, nghe lén thông tin trên môi trường mạng, thư điện tử mạo danh, thư điện tử vô danh, trang thông tin điện tử giả mạo, lấy cắp thông tin...


Trong lĩnh vực thông tin, báo chí, xuất bản trong thời gian qua đã có hàng trăm trang báo điện tử, hàng nghìn trang thông tin điện tử tổng hợp, hàng trăm nghìn trang blog của cá nhân xuất hiện trên internet. Lợi dụng chính sách khuyến khích người dân tham gia không gian mở trên internet để khai thác, chia sẻ thông tin đã xuất hiện rất nhiều hành vi vi phạm trên môi trường mạng; chủ yếu như: Đăng, phát nội dung không được phép; thông tin, hoạt động báo chí trái phép; thông tin sai sự thật; đăng phát thông tin vi phạm thuần phong mỹ tục Việt Nam; vi phạm quy định về quảng cáo; không thực hiện đúng quy định ghi trong giấy phép, thông tin nói xấu lãnh tụ, nói xấu chế độ, bôi nhọ nhân phẩm của tổ chức, cá nhân; đưa các xuất bản phẩm có nội dung trái với đường lối, quan điểm của Đảng, các xuất bản phẩm có nội dung vi phạm đã bị thu hồi lên mạng internet...


Sự bùng nổ của tin tức giả mạo (tin bịa đặt, sai sự thật) mang lại không ít phiền toái cho người sử dụng mạng xã hội trong những năm vừa qua. Tin tức giả mạo tràn ngập Facebook, Google, Twitter… đặc biệt liên quan đến các sự kiện lớn.


Tại Việt Nam, số liệu thống kê từ chương trình đánh giá an ninh mạng của Bkav cho thấy, 63% người dùng thường xuyên đọc được tin tức giả mạo trên Facebook, trong đó 40% là nạn nhân hằng ngày. Không chỉ khiến người đọc hoang mang, tin tức giả mạo còn tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn xã hội khi kẻ xấu cố tình đưa tin sai sự thật liên quan đến tình hình kinh tế, chính trị của đất nước.


Đối với lĩnh vực an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội của Việt Nam, hiện tội phạm mạng đã trở thành mối đe dọa hàng đầu như các hoạt động kích động, lôi kéo biểu tình, nói xấu Đảng và Nhà nước trên mạng, ngoài ra còn có truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy, vi phạm bản quyền số... Tình hình mất an toàn thông tin số tiếp tục diễn biến phức tạp, xuất hiện nhiều nguy cơ đe dọa đến việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng-an ninh. Đặc biệt, trong diễn biến phức tạp của tình hình an ninh thế giới, khu vực hiện nay, bí mật thông tin là một nội dung quan trọng mà các nước, các cơ quan đặc biệt thường xuyên thu thập để phục vụ cho cạnh tranh trong hoạt động kinh tế, có lợi cho quan hệ đối ngoại, an ninh quốc phòng…


Các thế lực thù địch và phản động đang ráo riết sử dụng tối đa các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội từ bên ngoài để tuyên truyền tâm lý, tạo dư luận trong nước cũng như ngoài nước nhằm chống phá Việt Nam. Chúng triệt để lợi dụng các tính năng ưu việt, hiệu quả của các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để đẩy mạnh tuyên truyền, xuyên tạc, kích động quần chúng nhân dân hòng mua chuộc, lôi kéo, tập hợp lực lượng từ các phần tử dân tộc, tôn giáo cực đoan, đối tượng có tư tưởng hận thù, phần tử cơ hội, bất mãn, thoái hóa biến chất, một bộ phận quần chúng nhẹ dạ, cả tin… để hình thành tổ chức bí mật ở trong nước và nước ngoài nhằm phục vụ cho các hoạt động bạo loạn, lật đổ, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Đáng chú ý, hoạt động phá hoại tư tưởng chủ yếu tập trung vào các thời điểm trước và trong khi diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng của Việt Nam. 


Nỗ lực, kết quả bảo đảm tự do ngôn luận, tự do internet ở Việt Nam


Nhân quyền là một lĩnh vực rộng, liên quan trực tiếp đến đời sống của con người, là tổng hợp của các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Trong đó, những quyền cơ bản, thiết yếu, thực tế nhất là quyền được sống, quyền được bình đẳng, quyền được phát triển trong một xã hội an toàn, quyền được học tập, quyền được lao động, quyền tiếp cận thông tin, quyền tự do ngôn luận…


Những năm qua, dù là đất nước đang phát triển, đời sống kinh tế-xã hội còn gặp nhiều khó khăn nhưng Việt Nam luôn nỗ lực và đã đạt được những kết quả tích cực trong bảo vệ quyền con người. Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn sẵn sàng trao đổi, đối thoại cởi mở với các cơ quan, tổ chức quốc tế về quyền con người trên tinh thần xây dựng nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau; để các cơ quan, tổ chức quốc tế có những nhận định, đánh giá thực tiễn tình hình nhân quyền trong nước trên cơ sở công bằng, minh bạch, khách quan. Mặt khác, Việt Nam không bao giờ chấp nhận và kiên quyết đấu tranh với những luận điệu, đánh giá chủ quan, phiến diện, thiếu thiện chí, không có cơ sở, không phản ánh đúng tình hình thực tế tại Việt Nam.


Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định. Các quyền hiến định đó được thể chế hóa trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam.


Cần nhấn mạnh rằng, mỗi nước, do bản chất của chế độ chính trị-xã hội, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, điều kiện lịch sử đặc thù, tình hình cụ thể trong nước và quốc tế, mà định ra các luật của mình tương thích với nhu cầu thực tế phát triển của đất nước. Do vậy, luật báo chí của các quốc gia, các khu vực khác nhau sẽ không giống nhau và trong các thời kỳ lịch sử khác nhau cũng khác biệt nhau. Chính vì vậy, nội hàm cụ thể của quyền tự do báo chí, xuất bản, thông tin cũng khác nhau ở các nước khác nhau. Tuy nhiên, tất cả các quyền này, dù ở bất cứ quốc gia nào cũng không phải là các quyền tuyệt đối, không giới hạn, mà là các quyền có giới hạn. 


Để quyền tự do ngôn luận của người dân được thực thi nghiêm túc và toàn diện, các luật, văn bản dưới luật về tự do ngôn luận đã cụ thể hóa Hiến pháp, ngày càng được hoàn thiện để vừa bảo đảm quyền của công dân, vừa giúp quyền đó thực hiện trên cơ sở luật pháp.


Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và Luật An ninh mạng năm 2018 nghiêm cấm mọi hành vi lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Nghiêm cấm những hành vi đăng tải, phát tán thông tin sai lệch, xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân.


Ngày 17/6/2021, Bộ Thông tin và Truyền thông có Quyết định số 874/QĐ-BTTTT ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội quy định cho tổ chức, cá nhân khi tham gia mạng xã hội có những ứng xử phù hợp.


Mọi người dân ở Việt Nam đều có thể tự do chia sẻ, bày tỏ thông tin, quan điểm cá nhân thông qua internet, nhất là qua mạng xã hội. Đó là những minh chứng sống động của việc Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo vệ quyền phát triển của mỗi người dân, quyền được tự do thông tin, tự do internet.


Những thành tích của Việt Nam về internet trong những năm qua rất ấn tượng. Ngày 19/11/1997, Việt Nam chính thức hòa vào mạng lưới Internet toàn cầu. Theo thống kê, vào thời điểm đó, số người sử dụng mạng internet ở Việt Nam chỉ hơn 200.000 người, đến năm 2002 có khoảng 3 triệu người sử dụng internet (khoảng 4% dân số cả nước thời điểm đó), năm 2007 là gần 20 triệu người, tăng thêm gần 7 lần (chiếm khoảng 24% dân số cả nước). Theo số liệu thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, tính tới tháng 9/2022, số lượng người dùng internet ở Việt Nam là khoảng 70 triệu người, tăng 0,8% trong giai đoạn 2020-2021 (chiếm hơn 70% dân số); số người sử dụng mạng xã hội ở Việt Nam là gần 76 triệu người, tăng gần 10 triệu người trong vòng 1 năm (tương đương 73,7% dân số).


Với những con số này, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Người dùng Việt Nam dành trung bình tới gần 7 giờ mỗi ngày để tham gia các hoạt động liên quan tới internet và tỷ lệ người dùng internet ở Việt Nam sử dụng internet hằng ngày lên tới 94%.


Nhờ hạ tầng băng rộng đã được phủ sóng khắp cả nước, internet giờ đây đã có mặt ở mọi nơi, từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, biên giới, hải đảo. Internet ứng dụng mọi lĩnh vực của đời sống, từ giáo dục, y tế, giao thông… tới cả xây dựng chính phủ điện tử. Đó là những minh chứng sinh động, thuyết phục về tự do internet ở Việt Nam.


HÀ NHÂN

ĐỀ CAO PHƯƠNG CHÂM “DÂN BIẾT, DÂN BÀN, DÂN LÀM, DÂN KIỂM TRA, DÂN GIÁM SÁT, DÂN THỤ HƯỞNG” TRONG CÔNG TÁC MẶT TRẬN

Thứ Hai, 28/11/2022, 07:23.

         Người làm công tác Mặt trận cần bám sát những nội dung thực tiễn của từng địa phương, đặc biệt là các vấn đề nóng, mang tính thời sự, nhạy cảm đang được người dân quan tâm để chủ động đề xuất với chính quyền các cấp giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc ngay tại cơ sở, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.

 


Đó là chỉ đạo của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị biểu dương Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và Trưởng ban công tác Mặt trận tiêu biểu toàn quốc giai đoạn 2017-2022, diễn ra sáng 27/11, tại Hà Nội.

 

Cùng dự hội nghị, có các đồng chí: Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư; Đỗ Văn Chiến, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng; lãnh đạo các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương; các đồng chí đại diện lãnh đạo các Tỉnh ủy, Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tỉnh, thành phố.

 

Báo cáo tại hội nghị, Phó Chủ tịch - Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Lê Tiến Châu nêu rõ: Hội nghị biểu dương 299 tấm gương tiêu biểu ở 63 tỉnh, thành phố, đại diện cho 10.599 Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và hơn 97.000 Trưởng ban công tác Mặt trận.

 

Các đại biểu được tuyên dương là những điển hình tiêu biểu nhất, đầy đủ thành phần, đại diện cho 43 dân tộc, 8 tôn giáo, là đoàn viên, hội viên của các tổ chức: Công đoàn, Hội nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi và các tổ chức thành viên của Mặt trận.

 

Họ là những bông hoa đẹp nhất trong vườn hoa rực rỡ, ngát hương, đa sắc màu của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; mặc dù ở độ tuổi, trình độ, vùng miền và quá trình cống hiến khác nhau, song đều là những cán bộ Mặt trận đầy tâm huyết, trách nhiệm, tận tụy, sáng tạo, hoạt động bền bỉ gắn bó mật thiết với cộng đồng, là những hạt nhân quan trọng góp phần xây dựng, củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới.

 

Phát biểu tại hội nghị, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc biểu dương, đánh giá cao những thành tích nổi bật của các đại biểu tham dự hội nghị, cũng như rất nhiều tấm gương thầm lặng khác trên các lĩnh vực công tác của Mặt trận, nhất là ở cấp cơ sở, trong các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo trong cả nước.

 

Có thể nói, mỗi đại biểu là một tấm gương “người tốt, việc tốt”, là một câu chuyện đầy cảm động về hình ảnh người cán bộ Mặt trận thầm lặng “ăn cơm nhà, thổi tù và hàng tổng”, trực tiếp đến từng gia đình, từng cá nhân để vận động thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia các cuộc vận động, phong trào thi đua, xây dựng đời sống văn hóa, nông thôn mới, bảo vệ môi trường, phòng chống dịch bệnh; thực hành dân chủ ở cơ sở; bảo đảm an ninh, trật tự, phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật, tệ nạn xã hội, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu; chung tay chăm sóc người có công, giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, hỗ trợ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt...có sự sẻ chia lúc tối lửa tắt đèn, lúc khó khăn, hoạn nạn.

 

Đặc biệt, trong đợt dịch Covid-19 vừa qua, phát huy tinh thần tương thân, tương ái, hoạt động của Mặt trận cấp cơ sở và Ban công tác Mặt trận đã góp phần quan trọng cùng cả nước từng bước khống chế và đẩy lùi dịch bệnh, hỗ trợ chăm lo người dân vượt qua đại dịch và ổn định cuộc sống.

 

Chủ tịch nước hoan nghênh và đánh giá cao Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức trọng thể Hội nghị biểu dương Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và Trưởng ban công tác Mặt trận tiêu biểu toàn quốc. Đây là sự kiện quan trọng, có ý nghĩa thiết thực nhằm ghi nhận, khẳng định những đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ Mặt trận cơ sở, trong xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; góp phần tích cực vào những thành tựu chung của cả nước. Qua đó tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên về vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, về nhiệm vụ xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới.

 

Chủ tịch nước cho biết: Chiều 26/11, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã gặp mặt 63 đại biểu trong số 299 đại biểu tiêu biểu dự hội nghị hôm nay. Những vấn đề đồng chí Tổng Bí thư đã nêu là kim chỉ nam trong công tác Mặt trận ở cơ sở, trong đó có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và Trưởng ban công tác Mặt trận. Đó là, công tác mặt trận trước hết cần phải gần dân, sát dân, trọng dân. Thứ hai, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người dân. Thứ ba, giám sát phản biện xã hội, kể cả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở địa bàn. Thứ tư, cán bộ mặt trận ở cơ sở cần tạo niềm tin cho người dân ở địa bàn của mình và nhiều ý kiến có liên quan khác. Tôi đề nghị các đồng chí nghiên cứu, vận dụng.

 

Chủ tịch nước nhấn mạnh: Đất nước ta đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đặt ra nhiều vấn đề mới, sự phát triển đa dạng, năng động và yêu cầu cao hơn về đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu ngày một gia tăng; phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội diễn ra ngày càng sâu sắc. Những thách thức đó đặt ra yêu cầu cấp thiết đòi hỏi công tác Mặt trận phải đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đáp ứng tốt hơn trước những yêu cầu phát triển của đất nước. Vì vậy, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định: “Đổi mới tổ chức, bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội theo phương châm hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư”.

 

Tin tưởng và mong muốn thời gian tới, các cấp Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồng chí Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và Trưởng ban Công tác Mặt trận trong cả nước tiếp tục chung tay cùng các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển của địa phương; Chủ tịch nước đề nghị, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục chỉ đạo tăng cường hoạt động của Mặt trận Tổ quốc các cấp, cấp xã và Ban Công tác Mặt trận gắn chặt với cơ sở, cộng đồng dân cư, coi đây là yếu tố sống còn của công tác Mặt trận.

 

Cán bộ làm công tác Mặt trận cần chủ động hơn nữa, thường xuyên hơn nữa, bám sát cơ sở, xuống tận làng, bản, thôn, tổ dân phố, từng hộ gia đình, dòng họ, cá nhân trên địa bàn để tuyên truyền, vận động, động viên nhân dân. Tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia vào giám sát hoạt động của chính quyền cơ sở, đề cao phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

 

Ở nước ta, mỗi địa phương, thậm chí là từng làng, bản, thôn, tổ dân phố… đều có những nét đặc thù về địa lý, dân cư, kinh tế, văn hóa, xã hội… Do vậy, người cán bộ Mặt trận ở cơ sở phải dựa vào tình hình thực tế, nắm rõ, hiểu rõ từng địa bàn, hộ gia đình cụ thể, con người cụ thể để tuyên truyền, vận động nhân dân cũng như tham mưu cho cấp ủy, chính quyền đảm bảo “đúng, trúng và kịp thời”.

 

Bên cạnh đó, chủ động, tích cực, thường xuyên hơn nữa trong việc tham mưu với các cấp ủy, phối hợp với chính quyền, đoàn thể địa phương để thực hiện đầy đủ, hiệu quả nhiệm vụ và chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp.

 

Trong đó, công tác Mặt trận cần bám vào những nội dung sát thực với từng địa phương, đặc biệt là các vấn đề nóng, thời sự, nhạy cảm đang được người dân quan tâm. Chủ động đề xuất với chính quyền các cấp giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc ngay tại cơ sở, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Tham mưu việc tổ chức đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân và tôn trọng dân. Làm tốt hơn vai trò lắng nghe tập hợp ý kiến nhân dân để phản ánh với các cơ quan của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

 

Cán bộ Mặt trận cần nắm được tâm tư, nguyện vọng của người dân, chúng ta cần phải giải thích, giải đáp góp phần giải quyết theo nhiệm vụ, mặt khác phải kịp thời tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chính quyền địa phương để giải quyết kịp thời, thấu đáo nguyện vọng chính đáng của người dân, của hộ gia đình.

 

Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nhằm chất lượng, trình độ chuyên môn, kỹ năng cho cán bộ làm công tác Mặt trận ở cơ sở. Đồng thời, nghiên cứu, đề xuất những chế độ, chính sách phù hợp để động viên, khích lệ cán bộ làm công tác Mặt trận tại cơ sở, nhất là địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn, bảo đảm các cán bộ Mặt trận của chúng ta yên tâm về tư tưởng, ổn định cuộc sống, gia đình để toàn tâm, toàn ý công tác và cống hiến.

 

Chủ tịch nước mong muốn, mỗi cán bộ làm công tác Mặt trận ở cơ sở luôn là người có phẩm chất đạo đức cách mạng, gần dân, có uy tín với dân; am hiểu pháp luật, không ngừng nâng cao kỹ năng tuyên truyền, vận động; thật sự gương mẫu, tiên phong, đi đầu trong khó khăn, vất vả, thậm chí chịu thiệt thòi hơn và hy sinh lợi ích cá nhân để “cùng đi, cùng ở, cùng làm” với nhân dân; cùng Đảng, Nhà nước chăm lo tốt hơn cho đời sống của nhân dân, giải quyết những vấn đề khó khăn, vướng mắc, những mâu thuẫn nội bộ cho người dân ngay từ cơ sở...

 

Chủ tịch nước bày tỏ tin tưởng, sau hội nghị này, công tác Mặt trận tiếp tục có những đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương thức, cách làm, các phương thức hoạt động; phát huy tốt hơn vai trò của Mặt trận Tổ quốc ở cấp xã, Ban công tác Mặt trận và cán bộ làm công tác Mặt trận ở hơn 100 nghìn địa bàn dân cư trong cả nước; tập hợp sức mạnh của 100 triệu đồng bào trong nước và đồng bào ta ở nước ngoài, cùng hiệp lực, quyết tâm, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.

 

Theo Minh Hà

Thứ Ba, 22 tháng 11, 2022

PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG THỰC SỰ TRỞ THÀNH MŨI NHỌN CỦA CÔNG NGHIỆP QUỐC GIA

 Thứ Hai, 23/11/2022, 08:11.



Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp thì hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn. Cạnh tranh chiến lược, xung đột cục bộ, an ninh chính trị, an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao, bạo loạn… tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp và quyết liệt dưới nhiều hình thức.


Nhiều cơ hội đối với sự phát triển CNQP, an ninh


Các nước lớn tăng cường điều chỉnh chiến lược, phô trương sức mạnh quân sự, răn đe, kiềm chế và can dự, chi phối và nội bộ các nước khác; đẩy nhanh vũ khí siêu thanh, đưa vào trang bị nhiều loại vũ khí mới, hiện đại;


Bên cạnh đó, Trung Quốc ban hành Luật Hải cảnh, Luật Bảo vệ và quản lý biên giới, tăng cường các hoạt động khẳng định chủ quyền theo yêu sách “Tứ Sa”, quyết liệt ngăn chặn khai thác dầu khí, đánh bắt hải sản của các nước, gây nhiều thách thức đối với khu vực. Môi trường quốc tế, quan hệ với đối tượng và đối tác, thị trường quốc tế liên quan tới mua bán vũ khí và công nghệ quân sự có những thay đổi đòi hỏi phải có các giải pháp, thích ứng phù hợp.


Công nghiệp Quốc phòng (CNQP) nhiều nước trên thế giới có xu hướng đẩy mạnh tiếp cận công nghệ quân sự và công nghệ lưỡng dụng tiếp tục có những bước nhảy vọt, nhiều loại vũ khí mới ra đời, xu hướng chiến tranh hiện đại sử dụng vũ khí công nghệ cao ngày càng phổ biến; Công nghiệp an ninh (CNAN) phát triển, ứng dụng công nghệ mới, công nghệ lưỡng dụng, nhiều loại phương tiện kĩ thuật nghiệp vụ mới ra đời, phục vụ đấu tranh với các loại tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao, an ninh phi tryền thống…


Do tác động của đại dịch CoVid 19, toàn cầu hoá và cuộc cách mạng lần thứ 4 diễn ra với tốc độ rất nhanh tạo ra nhiều thách thức, đồng thời cũng mở ra nhiều cơ hội đối với sự phát triển CNQP, an ninh (CNQP, AN) của mỗi quốc gia.


Sau hơn 35 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật: Hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện, có nhiều đổi mới, thực chất, chất lượng nâng cao; tổ chức bộ máy Nhà nước hoạt động hiệu lực hiệu quả hơn; nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển, quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện.


Doanh nghiệp Nhà nước được tiến hành sắp xếp, tổ chức lại, Nhà nước chỉ nắm giữ những lĩnh vực trọng yếu, then chốt; kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh, dần khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta; tiềm lực khoa học công nghệ (KHCN) của đất nước được tăng cường, đóng góp tích cực vào nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, bước đầu tiếp cận và thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, không ngừng mở rộng đi vào chiều sâu, thế và lực của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường.


Trong bối cảnh tình hình chính trị, kinh tế - xã hội thế giới và trong nước có nhiều biến động, khó khăn, thách thức nêu trên, CNQP, AN và động viên công nghiệp (ĐVCN) đã có những đóng góp quan trọng trong chiến lược đảm bảo vũ khí trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ (VKTB, PTKT) cho lực lượng vũ trang nhân dân (LLVTND) và tham gia phát triển kinh tế đất nước.


Sự cần thiết phải xây dựng Dự án Luật CNQP, AN và ĐVCN


Qua gần 20 năm triển khai Pháp lệnh ĐVCN và hơn 12 năm thực hiện Pháp lệnh CNQP; CNQP, AN, ĐVCN đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu quan trọng, cụ thể:


Công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện được triển khai đồng bộ từ TW đến địa phương, tạo sự chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn dân…Cơ cấu và tổ chức lực lượng CNQP từng bước được củng cố và phát triển; sự gắn kết giữa CNQP và công nghiệp dân sinh có bước đổi mới, góp phần duy trì năng lực sản xuất quốc phòng (SXQP) và đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế đất nước.


Hoạt động KHCN ngày càng lớn mạnh, phục vụ đắc lực nhiệm vụ nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu VKTB cho LLVTND, tạp sự đột phá về năng lực sản xuất VKTB… Đối với CNAN, xuất phát từ thực tiễn, CNAN đã ngày càng có những hước phát triển về năng lực sản xuất, cơ sở vật chất, nhân lực, cơ cấu tổ chức. Bộ CA đã xây dựng và triển khai nhiều chương trình, đề án, dự án đầu tư tạo tiền đề hình thành cơ sở vật chất, hạ tầng phát triển CNAN…


Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số mặt hạn chế, bất cập như; các văn bản quy phạm pháp luật về CNQP, CNAN và ĐVCN chưa đáp ứng tốt các yêu cầu phát triển CNQP, AN và nhiệm vụ ĐVCN trong tình hình mới; Văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh CNQP, Pháp lệnh ĐVCN quy định chưa đầy đủ, cụ thể, rõ ràng gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện; một số quy định của Pháp lệnh CNQP, ĐVCN còn có nội dung chưa thống nhất và không còn phù hợp với các văn abnr quy phạm pháp luật hiện hành…


Tiếp nữa, chức năng quản lý NN về CNQP, CNAN và ĐVCN chưa phát huy tối đa hiệu lực trong phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương… Cơ chế giao nhiệm vụ, đầu tư trong ĐVCN chưa đầy đủ, phù hợp, chưa thống nhất với hệ thống pháp luật về ngân sách, đấu thầu, giá, từ đó chưa tạo được động lực để huy động và tận dụng năng lực sẵn có của DN, ngoài LLVTND vào sảm xuất, chữa vũ khí, trang bị cho QĐND, dân quân tự vệ…


Chưa xây dựng các cơ chế đặc thù và luật hoá cơ chế, chính sách trên các nội dung trọng yếu của CNQP, CNAN như đào tạo, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cho CNQP, CNAN; KHCN và sản xuất sản phẩm quốc phòng công nghệ cao; sản phẩm an ninh mạng và sản phẩm chuyên dụng phục vụ an ninh…


Trong hội nhập quốc tế, CNQP, CNAN chủ yếu diễn ra một chiều, phần lớn là nhập khẩu VKTB, PTKT từ các nước; chưa thâm nhập sâu vào thị trường xuất khẩu vũ khí, sản phẩm phục vụ an ninh. Còn hạn chế trong triển khai thực hiện ĐVCN, chưa chú trọng phát triển các DN công nghiệp sản xuất các sản phẩm có tính lưỡng dục; các dây chuyền của Dn được ĐVCN có trang thiết bị công nghệ hiện đại chiếm tỉ lệ thấp; chỉ tham gia sản xuất một số loại đạn hoả lực bộ binh và lắp ráp, bảo dưỡng, sửa chữa được một số ít chủng loại vũ khí trang bị, chưa có khă năng sản xuất, sửa chữa vũ khí trang bị hiện đại, công nghệ cao.


Bên cạnh đó, CNQP luôn được Đảng và NN quan tâm, chỉ đạo sát sao, Bộ Chính trị đã ban hành các Nghị quyết chuyên đề về xây dựng và phát triển CNQP (Nghị quyết 05/BCT; Nghị quyết 27/BCT; Nghị quyết 06-NQ/TW; Nghị quyết 08-NQ/TW;) với những quan điểm, mục tiêu, yêu cầu, giải pháp xây dựng và phát triển CNQP phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, trong đó xác định: “CNQP là ngành đặc thù, phải được chăm lo xây dựng và phát triển theo một cơ chế đặc thù và ưu tiên trong đầu tư phát triển…”


Tiếp đó, ngày 16/4/2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về Chiến lược QPVN trong đó đề ra mục tiêu: “Xây dựng, phát triển CNQP tự lực, tự cường, lưỡng dụng, ngày càng hiện đại, có trình độ KHCN cao; đủ năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hoá vũ khí, phương tiện trang bị là bộ phận quan trọng của CN quốc gia…”.


Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã đề ra định hướng phát triển CNQP và ĐVCN như sau: “Xây dựng CNQP phù hợp với khả năng của nền kinh tế, làm nòng cốt cùng các ngành CN dân dụng đảm bảo nhiệm vụ sửa chữa, phục hồi và sản xuất một phần trang bị, đáp ứng yêu cầu ĐVCN khi tình thế đòi hỏi…”.


Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã khẳng định cần ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp cơ bản, tạo nền tảng cho CNQP, an ninh; Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 về Định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 của Bộ Chính trị đã khẳng định: “Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, thực sự trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia; tăng cường tiềm lực, tận dụng và phát triển liên kết công nghiệp quốc phòng, an ninh và công nghiệp dân sinh”; Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/4/2018 về Chiến lược Quốc phòng Việt Nam của Bộ Chính trị nêu rõ phương thức kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh trong quy hoạch phát triển vùng, các ngành kinh tế trọng điểm, địa bàn chiến lược; ưu tiên phát triển ngành, sản phẩm công nghiệp cơ bản tạo nền tảng cho CNQP, an ninh; Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 25/7/2018 về Chiến lược An ninh mạng quốc gia của Bộ Chính trị cũng chỉ rõ yêu cầu xây dựng và phát triển CNAN mạng tự chủ, sáng tạo; Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 05/9/2019 về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia của Bộ Chính trị nêu rõ nhiệm vụ kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng và an ninh để phát triển CNQP, an ninh có trọng tâm, trọng điểm; quy hoạch xây dựng hoàn chỉnh các khu CNQP, an ninh trên địa bàn cả nước; ban hành quy định về phát triển CNQP, an ninh; Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 về Đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới của Bộ Chính trị tiếp tục đề ra giải pháp về chú trọng đầu tư nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ hiện đại đáp ứng yêu cầu công tác, chiến đấu; xây dựng, phát triển CNAN theo hướng lưỡng dụng, có chiều sâu, ngày càng hiện đại, tự chủ, có trình độ khoa học và công nghệ cao.


Trên tinh thần đó và qua quá trình tổng kết 12 năm thi hành Pháp lệnh CNQP (2008-2020), 15 năm thực hiện Pháp lệnh ĐVCN (2003-2018) và tổng kết kết quả xây dựng, phát triển CNAN từ Đại hội Đảng lần thứ XI đến nay, việc xây dựng Dự án Luật CNQP, AN vàĐVCN (trên cơ sở kế thừa Pháp lệnh CNQP, Pháp lệnh ĐVCNvà các văn bản quy phạm pháp luật về CNAN) trình Quốc hội xem xét thông qua là cần thiết, phù hợp với yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới.


THANH THỦY