Tìm kiếm

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2024

KHÔNG THỂ ĐÁNH TRÁO BẢN CHẤT, BÔI ĐEN CHIẾN THẮNG 30/4/1975


Gần nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng cứ mỗi dịp 30/4, khi nhân dân cả nước kỷ niệm, ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc thì trên mạng xã hội, các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị tái diễn điệp khúc xuyên tạc về tầm vóc, ý nghĩa lịch sử của đại thắng mùa xuân năm 1975 cũng như bản chất cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. 


Tái diễn những luận điệu sai trái, xuyên tạc


30/4/1975 là một ngày lịch sử trọng đại - ngày hội thống nhất non sông, Bắc Nam một dải. Đó là thắng lợi vẻ vang của toàn thể dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đánh bại những thế lực thực dân, đế quốc hùng mạnh. Vẫn luận điệu cũ, một bộ phận người Việt vốn từng ở bên kia chiến tuyến trở lại điệp khúc ta thán về cái gọi là “ngày quốc hận”, “tháng tư đen”, “ngày tắm máu”…


Xe tăng Quân giải phóng húc đổ cổng Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975. Ảnh tư liệu.


Vì cho đến hôm nay, họ vẫn không nhìn thẳng để công nhận một sự thật lịch sử, đó là cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, là cuộc chiến tranh vệ quốc, bảo vệ giang sơn, bờ cõi, thống nhất non sông. Gần nửa thế kỷ hòa bình, xây dựng đất nước ngày càng thịnh vượng, phát triển, dân tộc ta với tinh thần hòa hiếu gác lại quá khứ chứ không bao giờ phủ nhận, lãng quên quá khứ.     (Xem tiếp trang 2)


Di chứng, hậu quả chiến tranh, sự hy sinh, mất mát sau chừng ấy năm chiến tranh kết thúc thì ở nhiều làng mạc, thôn xóm vẫn còn hiện hữu.


Để làm nên chiến thắng đó, quân và dân Việt Nam đã phát huy sức mạnh tổng hợp khối đại đoàn kết, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, làm nên Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đi đến thắng lợi cuối cùng, non sông Việt Nam thu về một mối. Đó là thắng lợi to lớn, toàn diện và triệt để của 30 năm chiến tranh giải phóng, một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của dân tộc ta. Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là sự kế tục và phát triển cao độ thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám và của cuộc kháng chiến chống Pháp, là thắng lợi vẻ vang của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc. Đó là chiến thắng không thể phủ định và để có chiến thắng đó, nhân dân ta đã phải chiến đấu trường kỳ, hy sinh biết bao xương máu.


Thế nhưng, các thế lực thù địch vẫn không nhìn thẳng vào sự thật, luôn cố tình đánh tráo, xuyên tạc bản chất, ý nghĩa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xuyên tạc Chiến thắng 30/4/1975. Những ngày gần đây, chúng đăng tải nhiều bài viết, video, hình ảnh sai lệch, xuyên tạc trên Internet, các trang mạng xã hội, tìm cách phủ nhận thành quả của cuộc kháng chiến trường kỳ của quân và dân cả nước. Hàng trăm bài viết kèm các hình ảnh phản cảm dưới tiêu đề “ngày quốc hận”, “tháng tư đen” được chia sẻ, lan truyền trên mạng xã hội để hướng lái dư luận, đánh tráo bản chất chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Cùng với đó, chúng ca ngợi chế độ dân chủ, tự do và kinh tế phát triển dưới thời chính quyền Sài Gòn; đòi vinh danh chế độ Việt Nam Cộng hòa, thậm chí có ý kiến còn đòi chia đôi lại đất nước giống như trước năm 1975. Từ đó, các đối tượng phủ định ý nghĩa Chiến thắng 30/4/1975, đòi từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà nhân dân Việt Nam đã lựa chọn và kiên trì xây dựng; bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chia rẽ Đảng với nhân dân, kích động hận thù, ly khai; phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân; làm giảm ý chí quyết tâm, đóng góp xây dựng đất nước của nhân dân, trong đó có đồng bào ta sống xa Tổ quốc; cố tình đả kích, phủ nhận chính sách và nỗ lực hòa hợp dân tộc của Đảng, Nhà nước ta… Nhiều bài viết với nội dung sai trái, tiêu cực được đăng tải trên Internet như: “Tháng tư vẫn là một kỷ niệm đau buồn cho những người ly hương vì mất nước”;  “tháng tư là tháng vo gạo bằng nước mắt”; “tháng tư là tháng tưởng nhớ những người lính Việt Nam Cộng hòa bị những người lính cộng sản giết một cách man rợ”; “mỗi năm đến ngày 30/4 thì vết thương lại nhức nhối trong lòng”; “tháng tư quốc hận, xin nghiêng mình tưởng niệm những nạn nhân đã ra đi không đến bến bờ và xin ngưỡng mộ những người đã bỏ hết những gì có được, ra đi để lập lại cuộc đời trên đất nước tự do”… 


Một số bài viết cố tình xuyên tạc rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và đại thắng mùa xuân 1975 của chúng ta là “hoàn toàn vô nghĩa, lẽ ra dân tộc Việt Nam đã có thể tránh được cuộc chiến tranh”; vu cáo đây là cuộc “nội chiến”, “huynh đệ tương tàn” giữa hai miền Nam - Bắc, “không có kẻ thua, người thắng, chỉ nhân dân là chịu thiệt thòi”; cho rằng cuộc chiến tranh ở Việt Nam là “không cần thiết” và hoàn toàn “có thể tránh khỏi”… Gần đây, trên một số trang mạng, website, blog cá nhân của các phần tử cơ hội chính trị phát tán nhiều tin, bài xuyên tạc, đòi “định danh lại ngày 30/4 cho phù hợp” vì không chấp nhận 30/4 là ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cho rằng “không nên gọi ngày 30/4 là ngày giải phóng”! Thậm chí, dưới danh nghĩa hòa hợp, hòa giải dân tộc, các đối tượng phản động, cơ hội chính trị còn đưa ra luận điệu cho rằng chỉ khi nào Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ quyền lãnh đạo đất nước, chỉ khi nào Việt Nam lựa chọn đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có thể thực hiện việc hòa hợp, hòa giải dân tộc. Các đối tượng tìm cách chia sẻ, lan truyền trên các fanpage, facebook của các tổ chức, cá nhân chống đối với rất nhiều comment cổ súy, “té nước theo mưa”…


Không dừng ở việc xuyên tạc trên mạng xã hội mà số đối tượng chống đối mới đây còn xây dựng một bộ phim được gọi là “Cảm tình viên” (The Sympathizer) được quay tại Thái Lan, tái hiện lại Việt Nam thời kỳ trước năm 1975. Nội dung kể về hành trình của một người tình báo cộng sản nằm vùng trong bộ máy nguỵ quân, sau ngày giải phóng tiếp tục hoạt động tình báo, sau đó theo đám phản động lưu vong về nước. Nhân vật này có sự thay đổi nhận thức khi vào trong trại cải tạo, lung lạc tinh thần và cuối cùng trốn chạy sang Mỹ vì cho rằng chỉ có tư tưởng của Mỹ mới tiến bộ, nhân văn. Với nội dung xuyên tạc như vậy, bộ phim được công chiếu ngay sát thời điểm kỷ niệm chiến thắng 30/4, với ý đồ tiêu cực, xuyên tạc chiến thắng của nhân dân Việt Nam. Chúng còn tổ chức những buổi hòa nhạc kệch cỡm, kêu gọi ủng hộ “ngày quốc hận”, tổ chức tưởng nhớ những người lính Việt Nam Cộng hòa, phủ nhận toàn bộ công lao của quân và dân ta…


Biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người


Ngày 30/4/1975 không phải là “ngày quốc hận” mà là ngày quốc gia độc lập, thống nhất non sông, ngày mở ra một trang sử mới hào hùng cho dân tộc Việt Nam. Đó là khát vọng của nhân dân cả nước, thống nhất Bắc – Nam để chung sức đồng lòng xây dựng giang sơn gấm vóc. Vì vậy, nói ngày 30/4/1975 là “ngày quốc hận”, “tháng tư đen” thể hiện suy nghĩ thù hận, bóp méo bản chất, ý nghĩa thiêng liêng của ngày thống nhất non sông, quan điểm đó đi ngược lại với dòng chảy của lịch sử.


Chiến thắng 30/4/1975 là thành quả vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của quân và dân ta. Sau Hiệp định Giơnevơ được ký kết, cầu Hiền Lương, sông Bến Hải (vĩ tuyến 17) của tỉnh Quảng Trị trở thành giới tuyến quân sự tạm thời phân chia nước ta thành 2 miền Nam - Bắc. Theo Hiệp định, sau 2 năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Thế nhưng, với âm mưu chia cắt lâu dài nước ta, Mỹ đã cho quân xâm lược miền Nam và tìm mọi cách để đánh chiếm miền Bắc, buộc nhân dân ta phải sống, chiến đấu anh dũng suốt 21 năm ròng rã. Đến ngày 30/4/1975, khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước ta mới trọn niềm vui thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà đúng như di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hơn hai mươi năm, dân tộc ta đã đi qua cuộc trường chinh muôn vàn gian khổ, gánh chịu bao mất mát, hy sinh để giải phóng đất nước, thống nhất non sông. Đấy là chân lý thời đại, là cái "dĩ bất biến" của một dân tộc yêu nước, yêu hòa bình chứ không phải là ý niệm và hành động của kẻ hiếu chiến, kích hoạt xung đột.


Thắng lợi đó khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự phát triển đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đó là thắng lợi của bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam; một biểu tượng sáng ngời của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và tinh thần đoàn kết quốc tế, cũng chính là chiến thắng của sức mạnh chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Nó thể hiện ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã trải qua hơn 21 năm, là cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và nhiều thử thách, cam go, ác liệt.


Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng đúc kết những kinh nghiệm quý báu. Đó là bài học xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam; phát huy sức mạnh thời đại; vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh toàn dân và nghệ thuật quân sự chiến tranh toàn dân, xây dựng và phát triển lý luận chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam. Bài học về sự chủ động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh cách mạng và nghệ thuật nắm bắt thời cơ, giành những thắng lợi quyết định. Đồng thời, phải luôn luôn chú trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong mọi hoàn cảnh, nâng cao sức chiến đấu và phát huy năng lực lãnh đạo của Đảng.


Lâu nay, chúng ta đón nhận những người từ bên kia chiến tuyến trở về với tinh thần gác lại quá khứ, chung tay xây dựng đất nước. Quan điểm hòa hợp, hòa giải bằng tinh thần bao dung, vì sự ổn định, phát triển của đất nước. Nhưng chung tay hoà hợp không có nghĩa là xoá nhoà lịch sử, làm sai lệch bản chất, ý nghĩa cuộc kháng chiến vệ quốc của dân tộc. Chiến thắng 30/4/1975 là mốc son lịch sử, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, được nhiều nước trên thế giới ngưỡng mộ và tôn vinh. Mọi sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội chính trị đều không thể làm phai nhạt giá trị, ý nghĩa lịch sử.  


Đại thắng mùa xuân 30/4/1975 được coi là ngày hội thống nhất non sông không chỉ của người dân sinh sống tại Việt Nam mà còn là ngày hội của hàng triệu đồng bào ta đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài. Ngày hội thống nhất non sông mang ý nghĩa cao cả và có tầm vóc to lớn gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc ta. Quá khứ được ghi ơn một cách trân trọng, sâu sắc và điều quan trọng hơn là lời nhắc nhở về tinh thần yêu quý hòa bình, hòa giải, hòa hợp và đoàn kết dân tộc. Đánh giá tầm vóc, ý nghĩa của Chiến thắng 30/4, Đại hội lần thứ IV của Đảng ta đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”. Do đó, mỗi người khi tham gia mạng xã hội cần tỉnh táo, nâng cao tinh thần cảnh giác trước các luận điệu xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc sự thật của các tổ chức, cá nhân phản động, chống phá Đảng, Nhà nước.



Bình Nguyễn - Đặng Thanh Ngà

 

  

KỶ NIỆM 49 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30-4-1975 / 30-4-2024): TỪ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ ĐẾN CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH LỊCH SỬ

 

Đem theo bài học, kinh nghiệm và tinh thần kháng Pháp-Điện Biên Phủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã làm nên những "Điện Biên Phủ mới" đối với đế quốc Mỹ, giành lại trọn vẹn nền độc lập, tự do.


Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh vào tháng 4-1975 đánh dấu mốc son sau 117 năm đất nước ta sạch bóng quân thực dân, đế quốc xâm lược.


"Cái tang chung của cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ"


Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ ra rằng, trong chiến tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa chống bọn thực dân, đế quốc, lúc đầu bao giờ cũng là cuộc chiến đấu của kẻ yếu chống kẻ mạnh. Muốn thắng kẻ địch mạnh hơn không chỉ dựa vào ý chí mà "phải có một đường lối rất tài giỏi". Trong đấu tranh quân sự, đó là lối đánh chắc thắng từng chiến lược, từng trận, từng chiến dịch đến chiến thắng hoàn toàn. Một đường lối như thế đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta hoạch định từ đầu kháng chiến, dẫn đến thắng lợi Điện Biên Phủ "chấn động địa cầu". Sau đó, dấu ấn Điện Biên Phủ lại ghi đậm nét trong trang sử vàng chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). 


Khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 19-12-1946), quân dân ta đánh vào các đô thị (Bắc vĩ tuyến 16), nơi quân địch tập trung đông và mạnh, giành thế chủ động để chuyển vào đánh lâu dài, một phương châm chiến lược của cuộc kháng chiến. Sau mở đầu thắng lợi, quân dân ta giành tiếp thắng lợi trong Chiến dịch Việt Bắc Thu-Đông năm 1947, đánh bại chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của địch.


Sau Chiến dịch Việt Bắc Thu-Đông, cuộc kháng chiến của ta trưởng thành lên một bước quan trọng cả về thế và lực. Trên cơ sở đó, bước vào Thu Đông 1950, quân ta mở cuộc tiến công địch ở biên giới và giành được thắng lợi vang dội. Thắng lợi đó đã phá vỡ sự bao vây, phong tỏa của địch, tỏ rõ sự lớn mạnh của Quân đội và sự phát triển nhảy vọt của cuộc kháng chiến. Từ Chiến dịch Biên giới Thu-Đông (năm 1950), ta giành lại thế chủ động chiến lược và liên tiếp giành thắng lợi trong nhiều chiến dịch tiến công và phản công: Hòa Bình (năm 1951-1952), Tây Bắc (năm 1952), Thượng Lào (năm 1953)... 


Trong khi đó, quân Pháp lún sâu thêm vào vũng lầy của cuộc chiến tranh. Lối thoát duy nhất của Pháp là dựa hẳn vào Mỹ, xin thêm nhiều viện trợ để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược, giành thắng lợi quân sự quyết định, kết thúc chiến tranh trong danh dự. Về phía Mỹ, từ lâu họ nuôi dưỡng ý đồ gạt Pháp để độc chiếm Đông Dương. 


Khi các điều kiện chưa cho phép thực hiện tham vọng đó, Mỹ đã can thiệp sâu hơn vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, lấn dần quyền của Pháp, tăng cường viện trợ tiền bạc, vũ khí, qua đó buộc Pháp kéo dài, mở rộng, quốc tế hóa chiến tranh. Kế hoạch quân sự Navarre với mục đích xoay chuyển cục diện chiến tranh Đông Dương là kết quả của sự thỏa thuận Pháp-Mỹ và nằm trong âm mưu chung đó. Từ động thái của quân ta, thực dân Pháp đã tập trung sức mạnh tối đa vũ khí, phương tiện chiến tranh ở Điện Biên Phủ, xây dựng nơi đây thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, thành trung tâm điểm của Kế hoạch quân sự Navarre. 


Nhưng mọi tính toán và hy vọng mà những kẻ hiếu chiến Pháp-Mỹ gửi gắm vào Điện Biên Phủ đã đổ sụp. Thắng lợi của quân dân ta ở Điện Biên Phủ là hoàn toàn và triệt để trong trận quyết chiến chiến lược, là thắng lợi lớn nhất, oanh liệt nhất trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Pháp, đồng thời là một trong những thắng lợi lớn nhất, oanh liệt nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Với thắng lợi đó, chúng ta đã buộc Pháp phải ký Hiệp định Geneva năm 1954, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Thất bại của Pháp đồng thời là thất bại của Mỹ. Điện Biên Phủ là "cái tang chung của cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ". 


"Điện Biên Phủ đối với Mỹ-ngụy"


Lợi dụng việc quân Pháp thất bại ở Đông Dương và phải rút khỏi nơi đây, Mỹ nhảy vào, trước tiên là ở miền Nam Việt Nam, thực hiện cái gọi là "lấp chỗ trống", dựng nên ở miền Nam Việt Nam chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm rồi thông qua chính quyền đó thực hiện ý đồ thực dân mới.


Chính quyền Ngô Đình Diệm được Mỹ ra sức giúp xây dựng để bên trong thì đứng được trên thế "ba chân" (quân sự, chính trị, kinh tế), bên ngoài có "chiếc ô bảo hộ" của khối quân sự Đông Nam Á (SEATO). Tuy nhiên, chính quyền tay sai đó cũng không đứng được lâu. Làn sóng Đồng khởi của đồng bào miền Nam Việt Nam từ cuối năm 1959 đến cuối năm 1960 đã làm lung lay tận gốc chính quyền Ngô Đình Diệm; đồng thời làm phá sản chiến lược Eisenhower; vô hiệu hóa một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới Mỹ, đó là thống trị gián tiếp, thông qua hệ thống "cố vấn" Mỹ và chính quyền tay sai bản xứ Ngô Đình Diệm. 


Không cam chịu thất bại, liền sau đó, Mỹ đề ra chiến lược mới, chiến lược Kennedy-một hình thức thống trị mới, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" nhằm cứu quân ngụy khỏi sụp đổ. Thế nhưng, đế quốc Mỹ cũng không cứu vãn được tình hình miền Nam Việt Nam ngày càng xấu đi. Cuối năm 1964 đầu năm 1965, ngụy quân Sài Gòn lâm vào tình trạng nguy khốn giống quân viễn chinh Pháp trong thời kỳ bị bao vây ở Điện Biên Phủ năm 1954. Mỹ bị đặt trước sự lựa chọn: Hoặc để mặc cho lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam quyết định số phận ngụy quân Sài Gòn như đã làm đối với quân viễn chinh Pháp, hoặc trực tiếp cứu ngụy quân đang có nguy cơ bị tiêu diệt. 


Với Mỹ, số phận của quân Pháp ở Đông Dương không phải là điều kiện quyết định sự sống còn của họ ở đây. Còn với ngụy quân Sài Gòn, con đẻ của chủ nghĩa thực dân mới Mỹ thì trái lại. Sự sụp đổ của quân ngụy sẽ như một phản ứng dây chuyền dẫn đến sự sụp đổ cơ đồ thực dân mới mà Mỹ đã cố công tạo dựng hơn mười năm, tất yếu dẫn đến sự ra đi của quân Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam và Đông Dương. Do đó, dù phải trả giá đắt, bọn hiếu chiến Mỹ cố giữ cho được ngụy quyền tay sai bằng mọi biện pháp, kể cả một cuộc can thiệp trực tiếp của quân viễn chinh Mỹ, kiểu cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953). Mỹ ỷ vào sức mạnh, bất chấp bài học từ thực tế lịch sử, lời khuyên từ nhiều phía và lời cảnh cáo của Việt Nam về một "trận Điện Biên Phủ" đang chờ đón chúng. 


Sau thất bại mùa khô 1965-1966, đề phòng đòn tiếp theo của quân ta, Mỹ đưa quân chiếm Khe Sanh (nằm trên Đường số 9 giáp biên giới Việt-Lào) và chốt giữ vị trí chiến lược quan trọng này. Đến cuối năm 1967, trước áp lực mạnh của quân ta, Mỹ tăng cường lực lượng cho Khe Sanh và xây dựng nơi đây thành tập đoàn cứ điểm mạnh, gồm 3 cụm cứ điểm Tà Cơn, Hướng Hóa, Làng Vây. Quân Mỹ đóng ở đây thường xuyên gần một vạn tên, gồm các tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, lực lượng pháo binh, thiết giáp và hàng vạn tên khác sẵn sàng ứng cứu, được sự yểm trợ mạnh của pháo binh và không quân, cả máy bay chiến lược B-52. 


Với lực lượng được tăng cường và tin vào sức mạnh của vũ khí, Mỹ đặt quyết tâm "bảo vệ Khe Sanh bằng mọi giá". Trong quá trình quân ta tiến công Khe Sanh (từ tháng 1 đến tháng 7-1968), cuộc tiến công nghi binh mở đầu Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, nhất là sau mỗi lần thất bại trong âm mưu giải vây Khe Sanh, đế quốc Mỹ lại bị nỗi ám ảnh "Điện Biên Phủ" giày vò. 


Họ buộc phải thay đổi ý định "bảo vệ Khe Sanh bằng mọi giá" chuyển sang tháo chạy khỏi Khe Sanh. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân dân miền Nam Việt Nam trong dịp Tết Mậu Thân với trận nghi binh mở đầu ở Khe Sanh (tháng 1-1968) tiếp sau những chiến thắng vang dội trong mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 là đòn sấm sét giáng vào đội quân xâm lược Mỹ. 


Với "Học thuyết Nixon" và chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh”, cuộc xâm lược của Mỹ ở Việt Nam càng tăng cường và mở rộng ra toàn Đông Dương. Họ hy vọng giúp quân ngụy giành thắng lợi quân sự-chính trị quyết định để "tự gánh vác chiến tranh" và để Mỹ rút dần khỏi cuộc chiến tranh, thực hiện "phi Mỹ hóa" chiến tranh được nêu ra sau đòn Tết Mậu Thân. Nhưng tất cả chỉ vô vọng. 


Quân Mỹ, quân ngụy tiếp tục bị những đòn tiến công mạnh mẽ của quân dân ta, của các lực lượng yêu nước Lào và Campuchia ngay từ những ngày đầu chúng tăng cường và mở rộng chiến tranh. Vì vậy, cuối năm 1972, Nixon mở cuộc tập kích bằng máy bay chiến lược B-52 lớn chưa từng có vào Hà Nội, Hải Phòng. Sử dụng đến mức cao nhất sức mạnh tàn bạo của không quân và những thành tựu mới nhất của khoa học kỹ thuật vào cuộc tập kích chiến lược có một không hai trong lịch sử chiến tranh, Nixon mưu toan giành thế mạnh trong đàm phán. 


Chúng ta không có ý định biến Hà Nội, Hải Phòng như một Điện Biên Phủ, nhưng khi kẻ thù muốn như vậy và gây nên sự chết chóc, tàn phá ở đó, thì chúng ta đủ quyết tâm và lực lượng để biến nó thành một Điện Biên Phủ. Hà Nội, Hải Phòng trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 đã lập nên chiến công vang dội, chấn động địa cầu, giống trận Điện Biên Phủ năm 1954 đối với Pháp. Trận "Điện Biên Phủ trên không" trở thành mồ chôn "uy thế không lực Hoa Kỳ". Với thắng lợi này, chúng ta đã buộc Mỹ đi đến ký Hiệp định Paris năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. 


Việc đội quân viễn chinh Mỹ rút hết về nước cùng với viện trợ của Mỹ cho quân ngụy giảm đáng kể đã làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng ở miền Nam có lợi cho cách mạng, tạo cho cách mạng nước ta điều kiện thuận lợi để tiến lên giành thắng lợi mới. Căn cứ vào tình hình đó cùng tính toán chiến lược của các nước lớn, phát hiện và nắm thời cơ chiến lược mới, chúng ta đi đến quyết định triển khai một trận quyết chiến chiến lược với Mỹ-ngụy để giành thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. 


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 diễn ra trong gần hai tháng qua nhiều chiến dịch lớn với đỉnh cao là chiến dịch mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh thẳng vào sào huyệt cuối cùng của ngụy quân ở Sài Gòn, đập tan hoàn toàn đội quân tay sai được Mỹ tổ chức, huấn luyện, trang bị, chỉ huy; đánh sập hoàn toàn cơ đồ thực dân mới mà Mỹ cố công xây dựng hơn hai thập kỷ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước./. 


Bảo Quyên

LỄ THƯỢNG CỜ “THỐNG NHẤT NON SÔNG” TẠI ĐÔI BỜ HIỀN LƯƠNG-BẾN HẢI

 

Sáng 30-4, tại Kỳ đài ở khu Di tích quốc gia đặc biệt Đôi bờ Hiền Lương-Bến Hải, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Trị long trọng tổ chức Lễ Thượng cờ “Thống nhất non sông” nhân dịp Kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 / 30-4-2024), 52 năm Ngày giải phóng tỉnh Quảng Trị (1-5-1972 / 1-5-2024).


Tham dự buổi lễ có các đồng chí Thường trực Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị; các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy, lãnh đạo các sở, ban, ngành; các Mẹ Việt Nam Anh hùng, lão thành cách mạng và đông đảo nhân dân...


Trong không khí trang nghiêm, lá cờ Tổ quốc được kéo lên trên đỉnh Kỳ đài lịch sử giữa tiếng nhạc Tiến quân ca oai hùng và sự xúc động của hàng nghìn người dân có mặt. Buổi lễ cũng đã dành một phút mặc niệm tưởng nhớ những người con ưu tú của quê hương, đất nước đã hy sinh xương máu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. 



Phát biểu tại Lễ Thượng cờ, ông Hoàng Nam, Phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị cho biết, ngày 20-7-1954, Hiệp định Geneva được ký kết, đất nước bị chia cắt thành hai miền Nam-Bắc, lấy vĩ tuyến 17, dòng sông Bến Hải làm ranh giới ngăn cách. Dòng sông Bến Hải trở thành giới tuyến quân sự tạm thời. Cầu Hiền Lương trở thành biểu tượng của nỗi đau chia cắt và khát vọng thống nhất của dân tộc. Tỉnh Quảng Trị trở thành tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa và hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam, cũng là một trong những chiến trường nóng bỏng, khốc liệt nhất. 


Trong những năm tháng chiến tranh, Mỹ-ngụy đã triển khai nhiều trận đánh hủy diệt nhằm đưa Quảng Trị trở thành “vành đai trắng,” biến Quảng Trị trở thành vùng “đất lửa”. Bằng ý chí kiên cường, lòng quả cảm và niềm tin sắt son với Đảng, với cách mạng, vượt lên mọi đau thương mất mát, tàn khốc của cuộc chiến tranh, quân và dân Quảng Trị đã kiên cường, bất khuất, anh dũng bám trụ đánh địch với quyết tâm “Một tấc không đi, một ly không rời”, chiến đấu và bảo vệ quê hương đến ngày đất nước thống nhất. Suốt những năm tháng ấy, lá cờ trên Kỳ đài Hiền Lương nơi đầu cầu giới tuyến vẫn kiêu hãnh tung bay, trở thành niềm tin và ý chí thống nhất của đồng bào hai miền Nam - Bắc. 


Chiến tranh đã lùi xa nhưng ký ức về những năm tháng hào hùng, vẻ vang ấy vẫn còn sống mãi trong trái tim mỗi người dân Việt Nam. Bến Hải - Hiền Lương đã khắc ghi vào lịch sử của dân tộc và tiềm thức nhân loại, là biểu tượng sáng ngời của niềm tin và khát vọng hòa bình, thống nhất non sông; là ý chí và sức mạnh của dân tộc Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước và sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa.


Sau Lễ Thượng cờ Thống nhất non sông, các đại biểu đã đến đặt vòng hoa, dâng hương tại Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Đường 9 và Di tích quốc gia đặc biệt Thành Cổ Quảng Trị tưởng nhớ và tri ân các Anh hùng liệt sĩ.


Sáng cùng ngày, Giải Đua thuyền truyền thống “Thống nhất non sông” đã diễn ra trên dòng sông Bến Hải với sự tham gia của Đội tuyển của các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Quảng Trị và các đội đua đến từ tỉnh Quảng Nam, Quảng Bình, Nghệ An và Bình Thuận thi đấu ở 5 nội dung. Giải đua thuyền đã thu hút đông đảo người dân trong và ngoài tỉnh đến tham gia cổ vũ.../.


Theo QĐND

Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2024

HÃY XỨNG ĐÁNG LÀ NHỮNG CHIẾN SĨ TIỀN PHONG TRÊN TIỀN TUYẾN CỦA MẶT TRẬN DÂN CHỦ HÒA BÌNH THẾ GIỚI

 

Một thắng lợi lớn của chúng ta


Hội nghị ngoại trưởng 4 nước: Liên Xô, Anh, Mỹ, Pháp họp ở Bá-linh ngày 25-1 đến 18-2-54 do thái độ kiên quyết và kiên nhẫn của Liên Xô đã đi tới quyết định đến ngày 26-4-54 tới đây sẽ họp hội nghị 5 nước lớn ở Giơ-ne trong đó có nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và có cả các nước liên quan tham gia, để bàn về giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương.


Đưa vấn đề Đông Dương ra bàn tại Hội nghị Giơ-ne tới đây, đó là một thắng lợi lớn của chúng ta.


Đế quốc Pháp từ chỗ hung hăng muốn nuốt chửng chúng ta bằng vũ lực, từ chỗ trước đây từ chối và phá hoại mọi cuộc đàm phán đến nay đã buộc phải nói tới vấn đề giải quyết hòa bình ở Đông Dương. Đế quốc Mỹ thì mặc dầu chúng tìm đủ cách để ngăn trở mọi phương pháp giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương nhưng cũng đã buộc phải nhận họp cuộc Hội nghị tay 5 trong đó có nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tham gia để bàn việc giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên và Việt Nam.


Đó không phải là bọn đế quốc Mỹ, Pháp đã chịu bỏ thái độ ngoan cố hiếu chiến của chúng. Nhưng đó là thất bại mới trong âm mưu xâm lược của chúng, và là một bước thắng lợi quan trọng của chúng ta và của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới.


Có được thắng lợi ấy là vì nhân dân chúng ta cũng như nhân dân 2 nước anh em Khơ-me, Lào đã anh dũng cầm vũ khí chống giặc trong 7, 8 năm nay. Có được thắng lợi ấy là do đường lối đấu tranh quốc tế rất đúng đắn của Liên Xô, là do sự ủng hộ tích cực của Liên Xô, Trung Quốc và của cả phe dân chủ đối với chúng ta, là do sự đấu tranh của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, đặc biệt là của nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa Pháp.


Đế quốc Mỹ và bọn hiếu chiến Pháp đương tích cực mưu phá hoại Hội nghị Giơ-ne


 Đế quốc Mỹ và bọn hiếu chiến Pháp rất sợ giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương vì hòa bình chúng sẽ mất những món lãi kếch sù do chiến tranh đem lại cho chúng. Tên tổng thống Mỹ - Ai-sen-hao - một tên trùm đế quốc khát máu đã nói trắng ra rằng chúng không thể thừa nhận có hòa bình ở Đông Dương vì như vậy Mỹ sẽ mất hết thiếc, cao su ở đây và sẽ mất một căn cứ quân sự rất tốt ở Đông Nam Á. Chính vì vậy mà sau khi đã gây nhiều tội ác và đã thất bại nhục nhã ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã trực tiếp can thiệp vào Đông Dương để kéo dài và mở rộng chiến tranh. Chúng cho Pháp vay thêm tiền, gửi thêm cho nhiều vũ khí, đặt kế hoạch quân sự cho Na-va. Đến nay tiến một bước nữa chúng cử phái đoàn quân sự qua để trực tiếp nắm quyền điều khiển chiến tranh. Chúng cho thêm các thứ máy bay vận tải, oanh tạc và gửi phi công Mỹ sang cùng giặc Pháp bắn giết nhân dân ta, tàn phá đất nước chúng ta. Nhưng mặc dầu mọi sự cố gắng giúp đỡ của đế quốc Mỹ, giặc Pháp vẫn bị ta đánh thua liên tiếp, nhất là ở Điện Biên Phủ, chiến trường chính ở Đông Dương hiện nay, giặc Pháp đương bị nguy khốn.


Hãy xứng đáng là những chiến sĩ tiền phong trên tiền tuyến của mặt trận dân chủ hòa bình thế giới


Nhân dân chúng ta rất yêu chuộng hòa bình. Như Hồ Chủ tịch đã nhiều lần tuyên bố chúng ta kháng chiến 8 năm nay chính đã đem lại độc lập và hòa bình thực sự cho Tổ quốc chúng ta. Chúng ta nhiệt liệt ủng hộ chủ trương của Liên Xô giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương cũng như các vấn đề khác ở thế giới. Đồng thời chúng ta biết rất rõ bọn đế quốc xâm lược Mỹ và bọn thực dân phản động Pháp tay sai của Mỹ bao giờ cũng hết sức ngoan cố. Chúng không muốn hòa bình, trái lại vẫn âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh ở Đông Dương. Cho nên mặc dầu lúc này chúng đã phải mở miệng nói đến hòa bình, nhưng một mặt khác chúng vẫn mang thêm viện binh từ Pháp sang, mang thêm phi cơ đại bác từ Mỹ sang, gần đây lại ra lệnh bắt thanh niên ráo riết hơn trước để đẩy mạnh âm mưu dùng người Việt đánh người Việt. Chúng ta phải hết sức tỉnh táo, phải kháng chiến kiên quyết, không nên nhầm tưởng rằng hòa bình sẽ đến dễ dàng. Chúng ta còn nhớ bài học kinh nghiệm Triều Tiên: vừa đàm phán vừa đánh nhau suốt 2 năm trời, trong lúc đàm phán lại chính là lúc đế quốc Mỹ thêm binh thêm tướng đánh dữ dội hơn trước. Và chỉ đến khi chúng bị nhân dân, quân Triều Tiên và Chí nguyện quân Trung quốc đánh thua liểng xiểng thì mới có cuộc đình chiến ngày nay. Chúng ta phải giáng cho chúng những đòn thật nặng nữa để chúng mở mắt ra thấy rõ, nếu càng kéo dài và mở rộng chiến tranh chúng sẽ càng bị thất bại nặng.


Chúng ta quyết đánh cho giặc Pháp một trận thua đau hơn hết tất cả những thất bại từ trước tới nay của chúng và sau trận thua đau đó, càng sẵn sàng để đánh cho chúng nhiều trận thua đau khác nữa. Chúng ta hãy cho đế quốc Mỹ một bài học thấm thía ở Đông Dương sau khi chúng đã phải nhận những bài học nhục nhã ở Triều Tiên.


Không những toàn thể nhân dân trong nước chúng ta mà cả hàng nghìn, hàng triệu nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới đương mong chờ những thắng lợi rực rỡ của chúng ta trên mặt trận Điện Biên Phủ, hiện nay là điểm xung yếu nhất trên tiền tuyến của phe dân chủ chống đế quốc xâm lược.


Tất cả chúng ta hãy xứng đáng là những chiến sĩ tiền phong của mặt trận dân chủ bảo vệ hòa bình thế giới.


Chúng ta hãy nắm vững súng trong tay, xông lên bắn tan đầu quân địch, để tích cực ủng hộ cho cuộc đấu tranh ngoại giao của phe dân chủ chúng ta trong Hội nghị Giơ-ne-vơ sắp tới.


- Nhiệt liệt ủng hộ chủ trương của Liên Xô giải quyết hòa bình vấn đề Đông Dương.


- Đả đảo đế quốc Mỹ can thiệp trắng trợn vào chiến tranh xâm lược Đông Dương.


- Quyết liên tục chiến đấu để tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ./.


(Trích Báo Quân đội nhân dân số 142, xuất bản tại mặt trận, ngày 16-4-1954)


Biên  Cương

TĂNG CƯỜNG TRIỂN KHAI CÔNG TÁC BẢO ĐẢM AN TOÀN THÔNG TIN MẠNG TRONG DỊP NGHỈ LỄ

 

Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) vừa có văn bản đôn đốc công tác đảm bảo an toàn thông tin mạng dịp lễ 30-4, 1-5 và 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ gửi tới các bộ, ngành, địa phương; các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, internet, nền tảng số cùng những tổ chức tài chính, ngân hàng thương mại trên toàn quốc.


Theo đó, để bảo đảm an toàn thông tin mạng, duy trì hoạt động ổn định các hệ thống thông tin trong thời gian diễn ra những ngày lễ lớn gồm: Kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30-4; Quốc tế Lao động 1-5 và 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, Bộ TT&TT đề nghị các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp tăng cường triển khai công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng cho hệ thống thông tin thuộc phạm vi quản lý của đơn vị mình.


Cụ thể, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cần củng cố và ưu tiên nguồn lực, nhân lực cho nhiệm vụ ứng trực, giám sát 24/7. Đồng thời, chủ động theo dõi thường xuyên, liên tục các hệ thống giám sát an toàn thông tin tập trung, hệ thống phòng, chống mã độc tập trung để đảm bảo phát hiện, xử lý và khắc phục kịp thời sự cố tấn công mạng, cảnh báo mã độc được xác minh. 


Yêu cầu kiểm tra, cập nhật đầy đủ các bản vá an toàn thông tin cho hệ thống thông tin theo cảnh báo của Cục An toàn thông tin và các cơ quan, tổ chức liên quan; rà soát, kiểm tra, đánh giá, khắc phục các lỗ hổng bảo mật; bóc gỡ phần mềm độc hại cho toàn bộ máy chủ, máy trạm trong hệ thống mạng.


Các đơn vị thường xuyên theo dõi, tiếp nhận và xử lý các cảnh báo an toàn thông tin qua Nền tảng điều phối xử lý sự cố an toàn thông tin mạng quốc gia - IRlab.vn do Bộ cung cấp. Cùng với đó, các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp phải sẵn sàng triển khai kế hoạch ứng phó, xử lý sự cố tấn công mạng và nhanh chóng khôi phục hoạt động bình thường của hệ thống thông tin trong trường hợp xảy ra sự cố.


Riêng với những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, internet và các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp hạ tầng số, nền tảng số, trong thời gian diễn ra các ngày lễ lớn, phải tăng cường nguồn nhân lực, phân công nhân lực trực giám sát, hỗ trợ và khắc phục sự cố để bảo đảm hạ tầng viễn thông, internet an toàn và thông suốt.


Rà soát, triển khai đầy đủ các biện pháp bảo vệ, bảo đảm phát hiện sớm và kịp thời ngăn chặn hoạt động tấn công mạng, phát tán thông tin xấu độc, thông tin vi phạm pháp luật trên hệ thống thông tin, hạ tầng mạng lưới, nền tảng số thuộc phạm vi quản lý.


Song song đó, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, internet và nền tảng số cũng được yêu cầu tăng cường theo dõi, cập nhật, xử lý các phản ánh, khiếu nại của người dùng về tin nhắn rác, cuộc gọi rác, đặc biệt là tin nhắn lừa đảo, cuộc gọi lừa đảo qua hệ thống tiếp nhận phản ánh tin nhắn rác, cuộc gọi rác do Bộ TT&TT, trực tiếp là Cục An toàn thông tin chia sẻ.


Cùng với yêu cầu xử lý quyết liệt, triệt để các trường hợp phát tán tin nhắn rác, tin nhắn lừa đảo, cuộc gọi rác, cuộc gọi lừa đảo mà người dùng phản ánh, Bộ TT&TT còn chỉ đạo các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, internet và nền tảng số thực hiện nghiêm và kịp thời các biện pháp xử lý theo yêu cầu của Bộ và cơ quan chức năng có thẩm quyền./. 


Bảo Minh

Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2024

LẬT TẨY THỦ ĐOẠN GÂY CHIA RẼ KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO, CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC



Thời gian qua, với sự chung tay, đồng lòng của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị, xã hội và đồng bào các tôn giáo, khối đại đoàn kết các tôn giáo ngày càng vững chắc, đi vào chiều sâu. Tại nhiều cộng đồng dân cư, đồng bào theo hay không theo các tôn giáo tích cực chung tay, phấn đấu để xây dựng quê hương, đất nước, giáo hội ngày càng giàu mạnh. Chính sự gắn kết trong khối đại đoàn kết các tôn giáo đã, đang góp phần tạo nên sức mạnh chung của toàn dân tộc, là động lực giúp đất nước vượt qua những khó khăn, thách thức để hội nhập và phát triển.


Thế nhưng, lạc lõng và đứng ngoài những xu hướng nói trên, vẫn còn đó một bộ phận chức sắc, tín đồ các tôn giáo vì những động cơ riêng và bị chi phối, điều khiển bởi những thế lực xấu nên đã có những hành vi gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo ra những xáo trộn, mâu thuẫn từ bên trong và làm tiền đề chống phá ở mức độ cao hơn, nguy hiểm hơn. Từ lâu, các thế lực thù địch, phản động đã ra sức khai thác, lợi dụng vấn đề tôn giáo hòng gây chia rẽ chính tôn giáo đó với nhà nước, giữa người theo tôn giáo và người không theo tôn giáo hoặc giữa chính các tôn giáo với nhau. Trong nhiều giai đoạn lịch sử, với đặc trưng là một quốc gia đa tôn giáo, đất nước Việt Nam chúng ta đã bị các thế lực thù địch triệt để lợi dụng từng sự việc cụ thể, bóp méo bản chất, đẩy sự việc thành cao trào hòng khiến khối đại đoàn kết tôn giáo bị chia rẽ.  Đây là thời cơ để các thế lực thù địch mưu đồ gây bạo loạn lật đổ, “cách mạng màu” như đã diễn ra tại nhiều nước. Nhận diện được vấn đề này, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn tại sao dù thời cuộc đã khác nhưng chiêu bài “tự do tôn giáo” vẫn là tâm điểm, mũi nhọn của các thế lực thù địch trong mục tiêu làm chia rẽ, làm suy yếu Việt Nam, gián tiếp ngăn cản, làm chậm tiến trình xây dựng, phát triển đất nước.


Có thể nhận diện các chiêu trò, thủ đoạn chia rẽ khối đại đoàn kết tôn giáo trên những dạng thức cụ thể sau:


Một là, chia rẽ các tôn giáo với nhau, bên trong từng tôn giáo và giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo nhằm làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc.


Trên thực tế, nhiều ý kiến còn chủ quan cho rằng, việc các thế lực thù địch, phản động chia rẽ các tôn giáo với nhau ít hoặc không tác động đến khối đoàn kết dân tộc, không ảnh hưởng tới sức mạnh chung của đất nước, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Đây là một quan điểm sai lầm. Một dân tộc không thể nói là đoàn kết nếu như các bộ phận cấu thành trong đó riêng rẽ, nghi kỵ, công kích, chống phá lẫn nhau và một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng như Việt Nam thì điều đó càng phải được nhận thức rõ. Bằng chứng là lịch sử dân tộc thời kỳ 1955 – 1975 cho thấy, để bình định, thâu tóm miền Nam Việt Nam và phục vụ cho mưu đồ tấn công ra miền Bắc, bằng những chiêu thức ngấm ngầm và công khai, chính quyền Việt Nam cộng hòa khi đó, đặc biệt là dưới thời kỳ cai trị của Mỹ - Diệm đã sử dụng triệt để chiêu bài chia rẽ, phân hóa các tôn giáo với nhau, giữa người theo và không theo tôn giáo. Theo đó, Việt Nam cộng hòa đã chủ trương thúc đẩy, hình thành tại các giáo phái (các tổ chức tôn giáo) khi đó như Cao Đài, Hòa Hảo (có những lực lượng quân sự bên trong); sự xuất hiện, ra đời của cái gọi là “Quân đội Hòa Hảo”, “Quân đội Cao Đài”, “Bình Xuyên” có căn nguyên từ đó.


Ngày nay, trong bối cảnh mới, sự chia rẽ giữa các tôn giáo với nhau hòng phá hoại khối đại đoàn kết không còn diễn ra như trước đây. Tuy có sự khác nhau về cách thức, cường độ song đây vẫn được xem là một vấn đề trọng tâm, được các thế lực xấu triệt để thực hiện với sự đan xen giữa phương thức cũ và mới. Theo đó, các đối tượng triệt để sử dụng những tiện ích của các trang mạng xã hội, phương tiện truyền thông đại chúng thiếu thiện chí với Việt Nam như VOA, RFA, RFI…, các thế lực thù địch, phản động đã cố tình bôi đen, xuyên tạc, tạo sự đối lập các tôn giáo với luận điệu “nhà nước đang ủng hộ, hậu thuẫn, coi trọng cho tôn giáo này, bóp nghẹt tôn giáo kia”. Đồng thời, chúng phủ định chính sách bình đẳng giữa các tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta.


Với thủ đoạn này, chúng nhằm “một mũi tên trúng hai đích”: Vừa xuyên tạc, tố cáo chính quyền, làm cho mối quan hệ giáo hội với chính quyền trở nên xấu đi, thậm chí rơi vào bế tắc, đối kháng, vừa gây chia rẽ nhằm làm các tôn giáo đối lập, đối đầu với nhau. Tại một số địa phương, một số chức sắc tôn giáo cực đoan đã công khai so sánh về quỹ đất mà chính quyền cấp cho. Chúng tung ra luận điệu: “Tôn giáo nào biết nghe lời, bị khuất phục thì tôn giáo đó muốn gì, đòi gì cũng được và ngược lại”. Với thủ đoạn này, dù không trực diện nhưng về lâu dài, các đối tượng mưu đồ làm cho bà con các tôn giáo tại cơ sở đối lập, mâu thuẫn với nhau. Chúng xuyên tạc, thổi phồng các luận điệu rằng, chính quyền, Nhà nước Việt Nam “hà khắc” với tôn giáo này, ưu ái tôn giáo kia trong sinh hoạt và giải quyết các nhu cầu, nguyện vọng, nhất là về đất đai, xây dựng... Đồng thời lên án, chỉ trích sự đồng hành của các tôn giáo đối với một vấn đề, sự vụ cụ thể, qua đó khoét sâu làm cho giữa các tôn giáo với nhau và trong từng tôn giáo có sự phân hóa sâu sắc về mặt đường hướng, thái độ và cách thức ứng xử.


Những năm qua, trước sự tàn phá của thiên tai, dịch bệnh, nhất là đại dịch COVID-19, Giáo hội các tôn giáo đều đồng hành, chung tay ứng phó, khắc phục hậu quả xảy ra và phòng ngừa những vấn đề tương tự. Rất nhiều những hình ảnh các tín đồ, chức sắc tôn giáo không quản ngại khó khăn, vất vả, nguy hiểm đến các vùng tâm dịch để hỗ trợ người dân… Song với thái độ thiếu thiện chí, các thế lực thù địch đã bỉ bôi, cho rằng điều đó là không cần thiết, kích động rằng “Giáo hội Phật giáo có lí do để dấn thân vì dù sao Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam cũng xem đó là Quốc giáo”, còn người Công giáo “nên lo cho mình, người đồng đạo của mình trước”!


Để tạo ra sự đối lập, gia tăng các mâu thuẫn, bất đồng, chúng đã triệt để khai thác những vấn đề tồn tại trong lịch sử, bịa đặt, xuyên tạc về quá trình hình thành, phát triển của từng hệ phái trong mỗi tôn giáo cụ thể. Các thế lực thù địch, phản động bôi nhọ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của một số nhà lãnh đạo Phật giáo đóng vai trò tập hợp, quy tụ chức sắc, tín đồ Phật giáo trong nước và miệt thị đường hướng mục vụ “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”. Chúng xuyên tạc rằng, đó là tinh thần lệ thuộc Nhà nước của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng ra sức cổ xúy, quảng bá về đường hướng của “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất”, bất chấp tổ chức này đã bị vạch trần bản chất tay sai, chống phá nhà nước và đi ngược lại quyền, lợi ích của dân tộc. Hình ảnh, hoạt động của các đối tượng chống phá như Thích Quảng Độ, Thích Không Tánh được tâng bốc, xem như đó là những “đấng chân tu chân chính”. Chính điều này đã ngăn cản và làm cho lộ trình thống nhất trọn vẹn Phật giáo Việt Nam đến nay vẫn chưa thực hiện được.


Hai là, chia rẽ các tôn giáo với Đảng, Nhà nước.


Với âm mưu làm suy giảm tiềm lực của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, gây mất ổn định tình hình ANTT, các thế lực thù địch, phản động đã sử dụng mọi phương thức, thủ đoạn, trong đó có chiêu bài chia rẽ các tôn giáo với Đảng, Nhà nước. Chúng mưu đồ gây nên những bất ổn từ bên trong, tiến tới những cuộc “cách mạng màu”, bạo loạn, lật đổ. Chiêu trò, thủ đoạn chia rẽ các tôn giáo với Đảng, Nhà nước ta gần đây diễn ra dưới các dạng thức sau:


(1). Tìm cách gieo rắc, thổi phồng mâu thuẫn, tranh chấp, qua đó tuyên truyền rằng, tôn giáo không thể đồng hành với chế độ XHCN tại Việt Nam. Để thực hiện mưu đồ này, chúng cố tình xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam. Chúng tuyên truyền, đánh tráo khái niệm, tự cho rằng, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tuyệt đối và không chịu bất cứ sự ràng buộc, chế tài xử phạt nào, kể cả khi xâm phạm quyền, lợi ích của các chủ thể khác được pháp luật bảo hộ. Bịa đặt việc Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương phân biệt đối xử, đàn áp tôn giáo. Thủ đoạn này được thực hiện phổ biến từ giai đoạn năm 1995 trở đi, khi Việt Nam chính thức bình thường hóa quan hệ với Mỹ và các hoạt động giao lưu, đối ngoại quốc tế được mở rộng. Nhiều vụ việc đã được truyền thông quốc tế thù địch với Việt Nam khai thác tối đa khiến dư luận quốc tế hiểu sai về tình hình tôn giáo, tự do tôn giáo trong nước. Vụ việc Thái Hà – Nhà Chung (Hà Nội) năm 2008, 2009 và chuỗi các hoạt động, vụ việc phức tạp tại Giáo phận Vinh (Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình), nhất là sau vụ ô nhiễm môi trường biển do Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh xả thải là những ví dụ điển hình.


(2). Trong vụ ô nhiễm môi trường biển ở miền Trung, các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vụ việc này để “gia công”, đẩy sự việc lên thành điển hình, thiết lập sự đối kháng giữa Nhà nước và tổ chức tôn giáo. Chúng kích động, xúi giục để một số chức sắc Công giáo có cái nhìn phiến diện, lệch lạc về vấn đề trên. Sau đó, núp bóng dưới danh nghĩa “đòi khiếu nại bồi thường” thiệt hại sự cố môi trường biển để kích động, tụ tập hàng ngàn giáo dân, mang băng rôn, khẩu hiệu kéo lên bao vây trụ sở UBND huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh (xảy ra tháng 4/2017). Thay vì cùng nhau ngồi đối thoại, đưa ra những ý kiến trên tinh thần xây dựng với chính quyền địa phương thì các đối tượng lại hô hào, kích động hòng tạo ra xung đột. Từ đó, chúng lu loa, vu vạ rằng, Đảng, Nhà nước ta đang “can thiệp thô bạo vào quyền tự do tôn giáo” của người dân!


Thời điểm năm 2021, 2022 khi đại dịch COVID-19 đang diễn biến phức tạp, trong khi người người, nhà nhà đều chấp hành các quy định đưa ra để đưa đất nước an toàn, vượt qua đại dịch, giảm thiểu tối đa thương vong về con người, vật chất thì một số cá nhân chức sắc tôn giáo đã kích động người dân tụ tập, không chấp hành các quy định phòng, chống dịch, gây phức tạp tình hình. Khi bị lên án, với sự kết hợp “nội công ngoại kích”, các đối tượng cực đoan, bất mãn chính trị trong nước và các thế lực thù địch, phản động bên ngoài đã xuyên tạc việc Nhà nước, chính quyền địa phương cấm đoán, không cho các tổ chức tôn giáo hành lễ, sinh hoạt tôn giáo. Chúng lu loa rằng, Đảng và Nhà nước ta đang “đàn áp tôn giáo”.


Ba là, song song với thủ đoạn tạo dựng sự đối lập giữa Nhà nước và tổ chức tôn giáo, các thế lực thù địch, phản động cổ xúy, hình tượng hóa những đối tượng cực đoan, chống đối trong tôn giáo.


Những đối tượng này là mạng lưới, chân rết được các thế lực thù địch, phản động khoác lên những ngôn từ mỹ miều rằng, “nhân tố đủ sức, đủ tầm để thiết lập nên một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nơi quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng được thực hiện đầy đủ, trọn vẹn nhất”. Sự tô vẽ có chủ đích từ mạng xã hội cùng sự hậu thuẫn từ các đối tượng chống phá bên ngoài khiến nhiều đối tượng trong cuộc ngộ nhận về vị trí của bản thân. Chúng xây dựng một thế lực để hòng đối trọng với Nhà nước, phủ nhận vai trò lãnh đạo, quy tụ nhân dân của Đảng, Nhà nước ta.


Với sự giúp sức của nhóm người Việt chống phá lưu vong từ bên ngoài, một số chức sắc cực đoan dưới danh nghĩa bảo vệ môi trường đã khởi kiện chủ thể trực tiếp gây ô nhiễm và đòi đền bù thiệt hại, họ vận động chính giới, nghị viện các nước châu Âu “cùng đồng hành với bà con giáo dân” trong hành trình kiện công ty Formosa. Nhưng thực chất là nhằm thổi phồng bản chất vụ việc, làm phức tạp vấn đề, tạo cớ để các tổ chức dân chủ, nhân quyền, chính giới một số nước nhân sự việc nói trên để ngợi ca, vinh danh, xướng tên một số chức sắc cực đoan trong các giải thưởng có tính thường niên, đột xuất. Để đánh bóng tên tuổi, cổ súy, hình tượng hóa một số chức sắc cực đoan, các thế lực thù địch, phản động đã hậu thuẫn cho các đối tượng có thêm “thành tích”. Đơn cử như linh mục Đặng Hữu Nam (Giáo phận Vinh) liên tiếp nhận nhiều giải thưởng như “giải thưởng Nhân quyền năm 2017” hay “giải thưởng Lê Đình Lượng năm 2021”.


Từ những vấn đề được chỉ ra có thể thấy, dù thời kỳ, giai đoạn lịch sử nào thì âm mưu, ý đồ gây chia rẽ khối đại đoàn kết tôn giáo đều được các thế lực thù địch, phản động chú trọng thực hiện. Việc nhận diện, lật tẩy những chiêu trò chống phá giúp quần chúng nhân dân, dư luận xã hội thấy được tính chất nguy hiểm, phản động, từ đó có những định hướng cụ thể, tránh bị các đối tượng dẫn dắt, lợi dụng, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và sự phát triển đất nước.



Đức Thắng – Phạm Thuỷ


BÁO CÁO NHÂN QUYỀN CỦA HOA KỲ NHẬN ĐỊNH KHÔNG KHÁCH QUAN VỀ VIỆT NAM


Chiều 25/4, tại Hà Nội, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng chủ trì cuộc họp báo thường kỳ, nêu quan điểm của Việt Nam về Báo cáo Nhân quyền thường niên mà Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố hôm 22/4. 


Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng.



Tại cuộc họp báo, Người Phát ngôn Phạm Thu Hằng nêu rõ: "Báo cáo Nhân quyền thường niên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ngày 22/4/2024 dù đã phản ánh các thành tựu và bước tiến của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người, nhưng rất tiếc vẫn tiếp tục đưa ra một số nhận định không khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế của Việt Nam".


Bà Phạm Thu Hằng tái khẳng định rằng chính sách nhất quán của Việt Nam là bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, trong đó coi con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và công cuộc phát triển đất nước. Các quyền tự do cơ bản của con người được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam và được bảo vệ, thúc đẩy bởi các văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai trên thực tiễn. 


"Việt Nam đã, đang và sẽ trao đổi thẳng thắn, cởi mở, trên tinh thần xây dựng với Hoa Kỳ về những vấn đề còn khác biệt, để tăng cường sự hiểu biết và qua đó đóng góp tích cực hơn nữa vào quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ", Người Phát ngôn nhấn mạnh. 



Kim Khánh


LỆNH CẤM ĐÁNH BẮT CÁ CỦA TRUNG QUỐC VI PHẠM CHỦ QUYỀN VIỆT NAM

 

Lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc không chỉ vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa mà còn vi phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng đặc quyền kinh tế được xác định theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982.


                          Ảnh minh hoạ. 

Ngày 25/4, tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao, Người Phát ngôn Phạm Thu Hằng đã nêu phản ứng của Việt Nam trước việc Trung Quốc công bố lệnh cấm đánh bắt cá ở biển Đông.


Bà Phạm Thu Hằng cho hay: “Lập trường của Việt Nam về lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc ở Biển Đông là nhất quán và đã được khẳng định rõ trong những năm qua. Lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc không chỉ vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa mà còn vi phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng đặc quyền kinh tế được xác định theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982".


"Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển của Việt Nam; không làm phức tạp thêm tình hình, đóng góp vào việc duy trì hòa bình, ổn định, trật tự ở khu vực Biển Đông", bà Hằng nêu rõ.



Kim Khánh

 

MẠNG LƯỚI CƠ SỞ Y TẾ HƯỚNG TỚI CUNG ỨNG DỊCH VỤ Y TẾ TOÀN DIỆN

 

Nằm ngay trung tâm xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La, Trạm y tế xã Phiêng Khoài khá nổi bật với tòa nhà 2 tầng có diện tích 350 m2 một sàn được xây dựng khang trang trong khuôn viên hơn 800 m2.


Dẫn chúng tôi đi thăm 15 phòng chức năng, trong đó có 9 phòng phục vụ công tác chuyên môn, khám chữa bệnh, các phòng chức năng, bác sĩ Vũ Huy Thông, Trưởng Trạm y tế Phiêng Khoài cho biết, trạm có 10 cán bộ y tế, trong đó có hai bác sĩ và một dược sĩ đại học thực hiện nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho 12 nghìn người dân sinh sống trên địa bàn. Trung bình mỗi ngày trạm đón tiếp thăm khám cho khoảng 30 bệnh nhân.


Trạm đang theo dõi và cấp phát thuốc cho 256 bệnh nhân tăng huyết áp. Tỷ lệ tiêm chủng mở rộng được duy trì khá cao, trong thời gian qua khi được cung ứng vắc-xin tiêm chủng mở rộng, cán bộ của trạm và nhân viên y tế thôn bản đã “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng” để mời, nhắc các gia đình đưa trẻ trong độ tuổi đến tiêm chủng đúng lịch, tiêm bổ sung...


Nhờ trạm y tế mới được xây dựng, người dân đến khám bệnh có quạt mát, ghế ngồi tại khu vực chờ khám; các phòng khám, phòng theo dõi sau tiêm chủng, phòng lưu bệnh trong ngày đều rộng rãi... theo đó y, bác sĩ làm việc cũng đỡ vất vả hơn, không còn chật chội như trạm cũ.


Chị Điêu Thị Thủy, 43 tuổi (nhà ở cách Trạm Y tế xã Phiêng Khoài hơn 2 km) cho biết rất vui vì công trình mới, rộng rãi, sạch đẹp và thoáng mát. Từ nay chị được thăm khám, theo dõi sức khỏe ở cơ sở khang trang mà lại gần nhà, không phải đi 40 km ra Trung tâm y tế huyện.


Có cơ ngơi mới, các cán bộ y tế ở Trạm Y tế Phiêng Khoài mong muốn được cấp thêm danh mục thuốc (hiện nay mới có 25 loại là quá ít); trang bị thêm trang thiết bị y tế phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân trên địa bàn.


Trạm y tế Phiêng Khoài là một trong 40 trạm y tế trên địa bàn 10 huyện, thành phố của tỉnh Sơn La được đầu tư xây mới theo dự án “Đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống cung ứng dịch vụ y tế tuyến cơ sở” do Ngân hàng Thế giới tài trợ.


Đến nay, dự án đã hoàn thành 27 trạm, trong đó 12 trạm đã bàn giao đưa vào sử dụng; 15 trạm đang hoàn thiện thủ tục kiểm tra kỹ thuật để bàn giao đưa vào sử dụng. Theo tiến độ, dự kiến hết tháng 5/2024 có 39 trạm y tế xã sẽ hoàn thành xây lắp, làm thủ tục bàn giao đưa vào khai thác phục vụ nhân dân. Trạm thứ 40 cũng sẽ được bàn giao đưa vào sử dụng trước ngày 15/10 tới đây.


Ngoài đầu tư xây mới 40 trạm y tế, dự án cũng sẽ cung cấp trang thiết bị y tế cho tất cả 204 trạm y tế xã và 12 trung tâm y tế huyện, thành phố.


Nhiều xã bắt đầu thí điểm mô hình sàng lọc đái tháo đường, tăng huyết áp, ung thư cổ tử cung và mô hình lồng ghép cải thiện dinh dưỡng trẻ em như: mô hình sàng lọc đái tháo đường, tăng huyết áp, ung thư cổ tử cung tại 28 bản thuộc các xã Co Tòng, Liệp Tè (huyện Thuận Châu); Mường Lèo, Sam Kha (huyện Sốp Cộp).


Các xã Pú Bẩu, Mường Cai, Huổi Một (huyện Sông Mã); Long Hẹ, É Tòng, Co Mạ (huyện Thuận Châu) triển khai mô hình cải thiện dinh dưỡng trẻ em. Theo đánh giá của đoàn giám sát Bộ Y tế, khi các trạm y tế được xây mới cũng như tăng cường cơ sở vật chất sẽ tạo ra “bộ mặt mới” cho y tế cơ sở ở Sơn La.


Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 201/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.


Quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế xác định sự kiên định theo đuổi mục tiêu công bằng, chất lượng, hiệu quả và hội nhập quốc tế, bảo đảm phát triển mạng lưới cơ sở y tế để làm tăng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân và đủ năng lực đáp ứng nhu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong từng thời kỳ, đồng thời từng bước tiệm cận hệ thống y tế của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.


PGS, TS Phan Lê Thu Hằng, Phó Vụ trưởng Kế hoạch-Tài chính (Bộ Y tế) cho biết, quy hoạch gồm năm cơ sở y tế cấp vùng, liên tỉnh và liên ngành thuộc các lĩnh vực: khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng; giám định y khoa, giám định pháp y và giám định pháp y tâm thần; y tế dự phòng, y tế công cộng; kiểm nghiệm, kiểm định, kiểm chuẩn về thuốc, mỹ phẩm, thực phẩm, vắc-xin và sinh phẩm y tế, thiết bị y tế, sản xuất dược phẩm, vắc-xin, sinh phẩm y tế và thiết bị y tế; lĩnh vực dân số-sức khỏe sinh sản.


Các chuyên gia lĩnh vực y tế cho rằng, bên cạnh phát triển hệ thống cơ sở y tế chuyên sâu, cần tiếp tục đầu tư cho y tế cơ sở để làm tốt chức năng “người gác cổng của hệ thống y tế”.


Việc đầu tư nhằm bảo đảm đồng thời cả hai yếu tố: nâng cao năng lực toàn diện của mạng lưới y tế cơ sở; cải thiện sự tương tác giữa mạng lưới y tế cơ sở với cộng đồng dân cư cũng như sự tương tác giữa mạng lưới y tế cơ sở với các cơ sở y tế tuyến trên./.


Thanh Loan

Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2024

HIỆP ĐỊNH GENEVA 1954: MỘT MỐC SON LỊCH SỬ CỦA NỀN NGOẠI GIAO VIỆT NAM 

 

Cách đây 70 năm, Hiệp định Geneva về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã được ký kết, mở ra một trang mới trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta.


Trải qua 70 năm, những bài học từ đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Geneva vẫn còn nguyên giá trị đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.


Ý nghĩa và tầm vóc lịch sử của Hiệp định Geneva


Cuối năm 1953, trước những chuyển biến mạnh mẽ trên cục diện chiến trường ở Đông Dương, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương mở cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, phối hợp với cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 để đi tới chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và toàn Đông Dương. Trả lời phỏng vấn của một nhà báo Thụy Điển ngày 26-11-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình, thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó" và “cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”.


Ngày 8-5-1954, đúng một ngày sau Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, Hội nghị Geneva bắt đầu bàn về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương. Trải qua 75 ngày đàm phán căng thẳng và phức tạp với 7 phiên toàn thể và 24 phiên họp cấp trưởng đoàn, Hiệp định Geneva đã được ký vào ngày 21-7-1954. Cùng với bản Tuyên bố về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương và hiệp định đình chiến ở Đông Dương, bản hiệp định đình chiến ở Việt Nam đã khẳng định độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, quy định quân đội nước ngoài phải rút khỏi Đông Dương, xác định các giới tuyến quân sự chỉ có tính tạm thời và mỗi nước Đông Dương sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do để thực hiện thống nhất đất nước, v.v...


Trong “Lời kêu gọi sau khi Hội nghị Geneva thành công” ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Hội nghị Geneva đã kết thúc. Ngoại giao ta đã thắng lợi to”. Quả thực, nếu trong Hiệp định Sơ bộ năm 1946, Pháp chỉ công nhận Việt Nam là quốc gia tự do nằm trong khối Liên hiệp Pháp, thì với Hiệp định Geneva, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc ta, các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đã chính thức được khẳng định trong một điều ước quốc tế và được các nước tham dự Hội nghị Geneva thừa nhận. Đây là cơ sở chính trị, pháp lý rất quan trọng để nhân dân ta đấu tranh trên mặt trận chính trị, ngoại giao trong công cuộc giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước sau này.


Cùng với Chiến thắng Điện Biên Phủ, việc ký kết Hiệp định Geneva đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta cũng như chấm dứt hoàn toàn sự đô hộ của chủ nghĩa thực dân cũ kéo dài gần 100 năm tại Việt Nam. Với ý nghĩa đó, hiệp định đã mở ra thời kỳ chiến lược mới của cách mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam để đi tới thực hiện trọn vẹn mục tiêu độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.


Thắng lợi tại Hội nghị Geneva bắt nguồn từ đường lối cách mạng đúng đắn và sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; từ khát vọng hòa bình cháy bỏng, chủ nghĩa yêu nước cùng bản lĩnh và trí tuệ của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Hiệp định Geneva là kết tinh thành quả đấu tranh quật cường và bền bỉ của quân và dân ta, từ Chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông 1947 đến Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 và tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ.


Cùng với Hiệp định Sơ bộ 1946 và Hiệp định Paris 1973, Hiệp định Geneva 1954 là một mốc son lịch sử của ngoại giao cách mạng Việt Nam, mang đậm dấu ấn tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh. Hội nghị Geneva đã tôi luyện nên những nhà lãnh đạo đồng thời cũng là những nhà ngoại giao xuất sắc trong thời đại Hồ Chí Minh như các đồng chí Phạm Văn Đồng, Tạ Quang Bửu, Hà Văn Lâu và nhiều cán bộ ngoại giao ưu tú khác. Nhìn lại 70 năm ngày ký Hiệp định Geneva, chúng ta biết ơn vô hạn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thế hệ cách mạng tiền bối cũng như sự hy sinh vô cùng to lớn của quân và dân ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp.


Chúng ta luôn ghi nhớ tình đoàn kết trong sáng và sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân Lào, Campuchia, các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, trong đó có nhân dân Pháp dành cho Việt Nam trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc. Do đó, Hiệp định Geneva không chỉ là thắng lợi của Việt Nam, mà còn là thắng lợi chung của ba nước Đông Dương và cũng là thắng lợi của các dân tộc bị áp bức trong đấu tranh giải phóng dân tộc. Cùng với Chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneva đã cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh vì hòa bình và độc lập dân tộc, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới. Từ năm 1954-1964, có tới 17 trong 22 thuộc địa của Pháp đã giành độc lập; riêng năm 1960 có tới 17 nước ở châu Phi tuyên bố độc lập.


Những bài học trường tồn với nền ngoại giao Việt Nam mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”


Đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Geneva là cuốn cẩm nang quý báu về trường phái đối ngoại và ngoại giao Việt Nam với nhiều bài học còn nguyên giá trị về nguyên tắc, phương pháp và nghệ thuật ngoại giao, mang đậm bản sắc ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Trước hết, đó là bài học về kiên định độc lập, tự chủ trên cơ sở lợi ích quốc gia-dân tộc. Quá trình đàm phán, ký kết Hiệp định Geneva cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn giá trị của nguyên tắc độc lập, tự chủ trong các vấn đề quốc tế. Bởi các quốc gia đều vì lợi ích của mình, nên chỉ có kiên định độc lập, tự chủ mới giúp chúng ta giữ vững thế chủ động và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc.


Thứ hai, bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, gắn đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế để tạo nên “một sức mạnh vô địch”. Bên cạnh phát huy tối đa sức mạnh ngọn cờ chính nghĩa và khối đại đoàn kết dân tộc, Đảng ta đã có chủ trương đúng đắn về không ngừng mở rộng đoàn kết quốc tế, trước hết là đoàn kết với Lào, Campuchia, các nước xã hội chủ nghĩa, bạn bè quốc tế và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.


Thứ ba, bài học về kiên định mục tiêu, nguyên tắc, song cơ động, linh hoạt sách lược theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, sách lược của ta thì linh hoạt”, trong đàm phán và thực thi Hiệp định Geneva, cái gốc “bất biến” là Việt Nam độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đến Hiệp định Paris 1973 sau này. Còn “vạn biến” là trong lúc chưa thể thực hiện được trọn vẹn mục tiêu cuối cùng, có thể linh hoạt và biến hóa trong sách lược để rồi từng bước tiến tới đạt được mục tiêu bất biến. Đó là một phương pháp và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh được kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của nước ta; đồng thời, thể hiện bản sắc “cây tre Việt Nam” của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, “gốc vững”, “thân chắc”, “cành uyển chuyển”.


Thứ tư, bài học về coi trọng nghiên cứu, đánh giá và dự báo tình hình, “biết mình”, “biết người”, “biết thời”, “biết thế” để từ đó “biết tiến”, “biết thoái”, “biết cương”, “biết nhu”. Đây là bài học sâu sắc, nhất là trong bối cảnh thể giới hiện nay đang trải qua những biến động lớn, phức tạp và khó lường, càng phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo tình hình thế giới, nhất là chuyển động của các xu hướng lớn, điều chỉnh chiến lược, chính sách của các đối tác, trên cơ sở đó chủ động có đối sách phù hợp với từng đối tác, từng vấn đề.


Thứ năm, bài học về sử dụng đối thoại và đàm phán hòa bình để giải quyết bất đồng, xung đột trong quan hệ quốc tế. Cùng với quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954, Đảng ta đã chủ trương dùng biện pháp đàm phán hòa bình để chấm dứt chiến tranh, từ đó đã mở hướng đi tới một cuộc đàm phán để kết thúc chiến tranh ở Đông Dương. Dù có thể có góc nhìn khác nhau, song không thể phủ nhận Hội nghị Geneva đã để lại một bài học mang tính thời đại về giải quyết bất đồng và xung đột quốc tế bằng biện pháp hòa bình, nhất là trong bối cảnh thế giới hiện nay đang diễn ra nhiều xung đột phức tạp.


Thứ sáu, bài học bao trùm là sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta nói chung và mặt trận ngoại giao nói riêng. Đảng đã đề ra chủ trương, đường lối và sách lược cách mạng đúng đắn, mở ra mặt trận ngoại giao chủ động tiến công, phối hợp chặt chẽ và thống nhất với các mặt trận chính trị, quân sự để tạo nên sức mạnh tổng hợp, bảo đảm cao nhất lợi ích dân tộc.


Những bài học nổi bật nói trên cùng nhiều bài học quý báu khác từ Hiệp định Geneva đã được Đảng ta kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển trong suốt quá trình đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Paris 1973 cũng như trong triển khai công tác đối ngoại hiện nay. Trong gần 40 năm tiến hành đổi mới, chúng ta luôn nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn này, đến nay nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện với 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, có mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước. Việt Nam là thành viên tích cực, có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế lớn như Liên hợp quốc, ASEAN, WTO, APEC, ASEM...; đã tham gia và đang đàm phán 19 hiệp định thương mại tự do, tạo nên một mạng lưới liên kết kinh tế rộng mở với khoảng 60 nền kinh tế trên thế giới.


Phát huy các bài học của Hiệp định Geneva và truyền thống vẻ vang của ngoại giao cách mạng Việt Nam, toàn ngành ngoại giao dưới sự lãnh đạo của Đảng quyết tâm xây dựng nền ngoại giao Việt Nam vững mạnh, toàn diện, hiện đại, đóng góp xứng đáng vào thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.


Quốc Quân

VIỆT NAM KHẲNG ĐỊNH CHÍNH SÁCH NHẤT QUÁN VỀ BẢO VỆ VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN CON NGƯỜI

 

Theo Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao, quyền và tự do cơ bản của con người được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam, được bảo vệ, thúc đẩy bởi các văn bản pháp luật cụ thể; được triển khai trên thực tiễn.


Giờ học tin học của học sinh Trường phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ.


Chiều 25/4, tại họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao, trả lời câu hỏi của phóng viên về phản ứng của Việt Nam đối với Báo cáo Nhân quyền năm 2023 của Hoa Kỳ công bố ngày 22/4/2024, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng cho biết: Báo cáo Nhân quyền thường niên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ mặc dù đã phản ánh các thành tựu và bước tiến của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người, nhưng rất tiếc vẫn tiếp tục đưa ra một số nhận định không khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế của Việt Nam.


Một lần nữa Việt Nam khẳng định chính sách nhất quán là bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, trong đó coi con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và công cuộc phát triển đất nước.


Quyền và tự do cơ bản của con người được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam, được bảo vệ, thúc đẩy bởi các văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai trên thực tiễn.


Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao nhấn mạnh, Việt Nam đã, đang và sẽ trao đổi thẳng thắn, cởi mở và trên tinh thần xây dựng với Hoa Kỳ về những vấn đề còn khác biệt để tăng cường sự hiểu biết và qua đó đóng góp tích cực hơn nữa vào Quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ./.


TVIỆT NAM KHẲNG ĐỊNH CHÍNH SÁCH NHẤT QUÁN VỀ BẢO VỆ VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN CON NGƯỜI


Theo Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao, quyền và tự do cơ bản của con người được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam, được bảo vệ, thúc đẩy bởi các văn bản pháp luật cụ thể; được triển khai trên thực tiễn.


Giờ học tin học của học sinh Trường phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ.


Chiều 25/4, tại họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao, trả lời câu hỏi của phóng viên về phản ứng của Việt Nam đối với Báo cáo Nhân quyền năm 2023 của Hoa Kỳ công bố ngày 22/4/2024, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng cho biết: Báo cáo Nhân quyền thường niên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ mặc dù đã phản ánh các thành tựu và bước tiến của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người, nhưng rất tiếc vẫn tiếp tục đưa ra một số nhận định không khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế của Việt Nam.


Một lần nữa Việt Nam khẳng định chính sách nhất quán là bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, trong đó coi con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và công cuộc phát triển đất nước.


Quyền và tự do cơ bản của con người được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam, được bảo vệ, thúc đẩy bởi các văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai trên thực tiễn.


Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao nhấn mạnh, Việt Nam đã, đang và sẽ trao đổi thẳng thắn, cởi mở và trên tinh thần xây dựng với Hoa Kỳ về những vấn đề còn khác biệt để tăng cường sự hiểu biết và qua đó đóng góp tích cực hơn nữa vào Quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ./.


Theo. TTXVNTXVN

CUỘC CHIẾN KHÔNG KHOAN NHƯỢNG, KHÔNG CHÙN BƯỚC: SỨC MẠNH CỦA ‘TRÊN DƯỚI ĐỒNG LÒNG’

 

Với tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai và không chịu sức ép của bất kỳ cá nhân nào” trong phòng, chống tham nhũng đã góp phần nâng tầm vị thế, uy tín và hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế, cũng như củng cố niềm tin của nhân dân trong nước.


Thực tế từ công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua đã khẳng định công tác phát hiện và xử lý tham nhũng được chỉ đạo và thực hiện một cách bài bản, đồng bộ, quyết liệt và hiệu quả; tạo bước đột phá trong công tác phòng, chống tham nhũng; đồng thời khẳng định quyết tâm rất cao của Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng với tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai và không chịu sức ép của bất kỳ cá nhân nào”.


Điều này được minh chứng qua hàng loạt các vụ án đã được phát hiện và xử lý trong thời gian qua. Trong đó, nhiều bị can là cán bộ cấp cao, cả đương chức và nghỉ hưu thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, như vụ án xảy ra tại Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á; vụ án xảy ra tại Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao và một số cơ quan, đơn vị, địa phương có liên quan; vụ án xảy ra tại Công ty cổ phần tập đoàn FLC, Công ty Chứng khoán BOS, Công ty cổ phần Xây dựng Faros và các công ty có liên quan; vụ án xảy ra tại Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ khách sạn Tân Hoàng Minh; vụ án xảy ra tại Tập đoàn Vạn Thịnh Phát và mới đây nhất là các vụ án liên quan đến Tập đoàn Thuận An, Tập đoàn Phúc Sơn…


Công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chính là để làm trong sạch bộ máy, để hệ thống chính trị phục vụ ngày một tốt hơn quyền và lợi ích của nhân dân, cũng như xứng đáng với niềm tin và sự phó thác của nhân dân. Chính vì vậy, việc điều tra, xử lý các tổ chức, cá nhân có hành vi tham nhũng, tiêu cực đều được thực hiện triệt để trên tinh thần không khoan nhượng, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Đơn cử như vụ án tại Công ty Việt Á, chỉ sau 6 tháng điều tra đã có 38 cá nhân bị khởi tố, trong đó có cựu Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long, cựu Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Chu Ngọc Anh cùng hàng loạt giám đốc CDC, cán bộ Sở Y tế các tỉnh, thành phố… Kết quả xử lý này được cán bộ, đảng viên, nhân dân hoan nghênh, đồng tình ủng hộ và đánh giá cao.


Có thể nói, với sự vào cuộc mạnh mẽ, tình hình tham nhũng đang từng bước được kiềm chế, ngăn chặn, đẩy lùi và có chiều hướng thuyên giảm, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân; tạo động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.


Báo cáo tại Phiên họp thứ 32 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về công tác dân nguyện của Quốc hội tháng 3/2024 mới đây, ông Dương Thanh Bình, Trưởng Ban Dân nguyện cho biết, cử tri và nhân dân đánh giá cao những chính sách của Đảng, Quốc hội, Chính phủ góp phần giữ vững chủ quyền quốc gia, ổn định và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước trong tình hình quốc tế có nhiều biến động, khó khăn và phức tạp. Bên cạnh đó, cử tri và nhân dân cũng bày tỏ sự tin tưởng của Đảng và Nhà nước trong công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay đã góp phần củng cố niềm tin của nhân dân cả nước vào quyết tâm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước.


Để có được những đánh giá đó, trong bối cảnh thế giới nhiều bất ổn với các cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine, giữa Israel và Iran, đồng thời suy thoái kinh tế toàn cầu xảy ra trầm trọng kể từ đại dịch COVID-19 gây nhiều hệ lụy cho cả thế giới, kinh tế Việt Nam vẫn có những bước phát triển vượt bật và đạt được nhiều thành tựu đáng kể.


Theo đó, nếu như năm 2020, trong bối cảnh dịch COVID-19 bùng phát mạnh và diễn biến khó lường trên phạm vi toàn cầu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hầu hết các quốc gia trên thế giới, kinh tế của Việt Nam vẫn duy trì được đà tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất thế giới, với mức tăng trưởng GDP đạt 2,91%. Bước qua năm 2021, nền kinh tế Việt Nam gặp phải khó khăn chưa từng có do đại dịch COVID-19 đã trực tiếp tác động tới mọi mặt, nhưng GDP vẫn tăng trưởng ấn tượng với 2,58%. Sang năm 2022, kinh tế Việt Nam đã có một “bệ phóng” tốt khi tăng trưởng đạt 8,02%, thuộc diện cao nhất trên thế giới. Đến năm 2023, Việt Nam lại tiếp tục có mức tăng trưởng kinh tế đạt 5,05% trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn có nhiều biến động khó lường.


Không những thế, Việt Nam cũng đã đạt được nhiều thành tựu trên mặt trận ngoại giao kinh tế khi đã ký kết được 16 Hiệp định thương mại tự do (Free Trade Area – FTA) với các nước và khu vực; trong đó có hai hiệp định quan trọng là Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).


Đặc biệt, chưa bao giờ vị thế, uy tín và hình ảnh Việt Nam độc lập, tự chủ, phát triển năng động, là bạn bè thủy chung, chân thành, là đối tác tin cậy, tích cực lại nổi bật trên trường quốc tế như hiện nay. Trong đó, những chuyến thăm lịch sử như chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Joe Biden; chuyến thăm Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình… đã tạo nên bước phát triển mới trong đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam.


Những kết quả trên một lần nữa khẳng định mục tiêu, quan điểm, chủ trương, giải pháp của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đồng thời giữ vững ổn định kinh tế – xã hội, phát triển đất nước là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp thực tiễn.


Tuy nhiên, bên cạnh sự tin tưởng, phấn khởi của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, vẫn có những luồng dư luận cho rằng, nếu quá tập trung vào chống tham nhũng sẽ làm “nhụt chí”, “chùn bước” những người dám nghĩ, dám làm, thậm chí làm chậm sự phát triển đất nước. Đây được xem là nhận thức sai lệch của những cá nhân thiếu bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng không kiên định, có động cơ dung túng, bao che cho các hành vi tham nhũng, tiêu cực; làm giảm quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. “Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng và xây dựng, làm trong sạch Đảng và bộ máy nhà nước chỉ làm “chùn bước” những ai có động cơ không trong sáng, đã trót “nhúng chàm” và những người không nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, thiếu bản lĩnh, thiếu kiến thức và kinh nghiệm”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định.


Phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp; dù “không có tiếng súng” nhưng cũng đầy chông gai và nguy hiểm. Tuy nhiên, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, “trên – dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”, cùng với việc hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, nạn tham nhũng chắc chắn sẽ được ngăn chặn, đẩy lùi; niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước chắc chắn sẽ được củng cố, nâng cao hơn nữa./.


Hương sen