Tìm kiếm

Thứ Hai, 29 tháng 11, 2021

CHỦ ĐỘNG HƯỚNG NGHIỆP CHO QUÂN NHÂN

 



Tham gia ngày hội tư vấn hướng nghiệp, tuyển sinh học nghề do Trung đoàn 31, Sư đoàn 309 phối hợp với Thành đoàn Biên Hòa (Đồng Nai) tổ chức vào tháng 11-2020 cho bộ đội xuất ngũ tháng 1-2021, các chiến sĩ được nghe đại diện doanh nghiệp, trung tâm dạy nghề giới thiệu, định hướng những ngành nghề phù hợp với khả năng, sức khỏe, lứa tuổi; chế độ, chính sách ưu đãi dành cho quân nhân xuất ngũ và nhu cầu việc làm, thị trường lao động, xu hướng phát triển cũng như mức thu nhập theo từng nghề... Binh nhất Trần Minh Tiến, chiến sĩ Đại đội 1, Tiểu đoàn 7 cho rằng: “Những buổi tư vấn hướng nghiệp như thế này là cơ hội tốt để chúng tôi tiếp xúc, tìm hiểu, trao đổi với đại diện doanh nghiệp, trường nghề về cơ hội việc làm, ngành nghề phù hợp với khả năng, từ đó định hướng tương lai sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự”. 


Thực tế cho thấy, khá nhiều hạ sĩ quan, chiến sĩ chuẩn bị xuất ngũ băn khoăn, trăn trở, chưa biết chọn nghề nào phù hợp với bản thân bởi thiếu thông tin về việc làm, chưa định hình được nghề nghiệp sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Bởi vậy, nhiều năm nay, Sư đoàn 309 chỉ đạo các đơn vị phối hợp chặt chẽ với Trường Cao đẳng Nghề số 22 (Quân đoàn 4), Thành đoàn Biên Hòa, các trung tâm đào tạo nghề khu vực phía Nam và doanh nghiệp trên địa bàn tổ chức nhiều buổi tọa đàm, ngày hội tư vấn hướng nghiệp cho quân nhân chuẩn bị xuất ngũ.


Đại tá Lê Khắc Huy, Chính ủy sư đoàn cho biết: “Đảng ủy, chỉ huy sư đoàn luôn tạo điều kiện tốt nhất cho các đơn vị tổ chức hoạt động hướng nghiệp, phấn đấu 100% quân nhân chuẩn bị xuất ngũ đều được tư vấn, giới thiệu việc làm và công khai các chế độ, tiêu chuẩn được hưởng khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Theo thống kê sơ bộ, những năm qua, phần lớn quân nhân sau khi học nghề đều có việc làm ổn định, đóng góp tích cực cho xã hội”.


Những buổi tư vấn hướng nghiệp được các đơn vị thuộc Sư đoàn 309 tổ chức chặt chẽ trên tinh thần dân chủ, giúp bộ đội xây dựng động cơ, lựa chọn nghề đào tạo phù hợp với năng lực, trình độ, nguyện vọng và nhu cầu sử dụng lao động của xã hội. Đây cũng là dịp để cán bộ các cấp lắng nghe tâm tư, nguyện vọng về việc làm của quân nhân trước khi xuất ngũ. Trên cơ sở đó, chỉ huy đơn vị và đại diện trường nghề, doanh nghiệp giải đáp, tư vấn kịp thời những ngành nghề phù hợp, thông tin đầy đủ chế độ, chính sách hậu phương quân đội, giúp chiến sĩ yên tâm, tin tưởng, hiểu rõ sự quan tâm, đãi ngộ của Đảng, Nhà nước, quân đội, địa phương đối với bộ đội xuất ngũ. 


Cùng với việc chỉ đạo tổ chức các buổi tư vấn hướng nghiệp, Đảng ủy, chỉ huy sư đoàn còn yêu cầu cấp ủy, chỉ huy các cấp đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho bộ đội về vai trò của nghề nghiệp; những lợi ích thiết thực khi có nghề trong tay và vận động quân nhân xuất ngũ đăng ký học nghề; khảo sát, nắm chắc nhu cầu, xu hướng nghề nghiệp, nguyện vọng học nghề trong đơn vị. Hệ thống truyền thanh nội bộ các đơn vị bổ sung chuyên mục hướng nghiệp, tuyển dụng để kịp thời cung cấp thông tin cho bộ đội... 


Trung úy Nguyễn Văn Đức, Chính trị viên phó Đại đội 9, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 31 bộc bạch: “Tham gia tuyên truyền hướng nghiệp, Ban chấp hành chi đoàn còn tổ chức sinh hoạt, diễn đàn, tọa đàm “Thanh niên với nghề nghiệp”, “Nghề nghiệp, định hướng tương lai”... để đoàn viên, thanh niên bày tỏ nguyện vọng, chia sẻ, góp ý cho nhau về dự định việc làm sau khi xuất ngũ”.


Theo Trung tá Đặng Văn Dũng, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 31, năm nay, do điều kiện dịch Covid-19 diễn biến phức tạp nên đơn vị chưa tổ chức ngày hội việc làm. Tuy nhiên, đơn vị đã chủ động xây dựng kế hoạch, liên hệ trước với một số trung tâm dạy nghề, trường đào tạo nghề có uy tín và doanh nghiệp để kịp thời tổ chức tư vấn hướng nghiệp cho bộ đội chuẩn bị hoàn thành nghĩa vụ quân sự khi điều kiện cho phép


VIỆT NAM CẦN LÀM GÌ TRƯỚC NGUY CƠ TỪ BIẾN CHỦNG OMICROM?




Trước sự xuất hiện của biến chủng SARS-CoV-2 mới, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần chủ động giám sát và duy trì biện pháp phòng dịch để hạn chế nguy cơ.

Hôm 25/11, Bộ trưởng Bộ Y tế Nam Phi đã thông báo về việc phát hiện biến chủng B.1.1.529 (Omicron) đang lây lan nhanh chóng ở nhiều vùng trên địa bàn quốc gia này. Trong vài giờ sau đó, nhiều quốc gia cũng đã đồng loạt cấm đi lại đến Nam Phi và một số nước láng giềng.


Biến chủng mới đáng lo ngại

Trao đổi với Zing, PGS.TS Đỗ Văn Dũng, Trưởng khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP.HCM, cho biết hiện nay các nhà khoa học vẫn chưa có quá nhiều thông tin về biến chủng Omicron ở Nam Phi.


“Đầu tiên, do biến chủng này lây lan ở Nam Phi rộng rãi hơn so với Delta, họ nghi ngờ Omicron thậm chí có thể mạnh hơn biến chủng virus từng gây ra làn sóng dịch nghiêm trọng ở nhiều quốc gia trên thế giới (Delta)”, ông Dũng nói.


Tuy nhiên, ngành y tế vẫn chưa chứng minh được giả thuyết này. Omicron cũng chưa được phân tích gene cụ thể để được khẳng định là có khả năng thoát khỏi miễn dịch nhờ vaccine.


PGS Dũng nhận định: “Chúng ta cũng chưa biết biến chủng này có gây bệnh nặng hơn Delta hay không. Điều này cũng tương tự với giả thuyết chúng gây bệnh nặng tương tự Delta nhưng lây lan nhanh hơn”.


Trên thực tế, đây chỉ là 3 khả năng chưa được chứng minh nhưng nếu xảy ra, điều này sẽ rất nguy hiểm. Các nhà khoa học Nam Phi cũng đang tiếp tục nghiên cứu để kiểm tra lại các giả thuyết trên.


Trưởng khoa Y tế Công cộng khẳng định: “Có thể nói đây là biến chủng đáng lo ngại. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa biết nó nguy hiểm đến mức nào”.


Nhận định về biến chủng này, PGS.TS Trần Đắc Phu, nguyên Cục trưởng Cục Y tế Dự phòng, Bộ Y tế, cho biết WHO cũng đang đánh giá về tốc độ lây lan và khả năng chống lại vaccine của biến chủng Omicron. Theo đó, biến chủng này thực sự đáng lo ngại và nguy hiểm với cộng đồng.


Chủ động ứng phó

Theo PGS Phu, trước những nguy cơ nói trên, Việt Nam cần nhanh chóng đưa ra những biện pháp ứng phó ngay từ bây giờ thay vì để biến chủng xâm nhập rồi mới xử lý.


“Trước tiên, chúng ta cần có giải pháp cụ thể đối với những người từ các quốc gia đang xuất hiện biến chủng này, phát hiện họ đã xâm nhập vào cộng đồng hay chưa, từ đó tiếp tục kiểm soát sự lây lan của SARS-CoV-2. Đồng thời, Việt Nam cũng nên đánh giá sự lây lan và khả năng chống lại vaccine của biến chủng mới như thế nào”, nguyên Cục trưởng Cục Y tế Dự phòng nói.


Cùng quan điểm, PGS.TS Nguyễn Việt Hùng, Phó chủ tịch Hội Kiểm soát Nhiễm khuẩn Hà Nội, cho rằng dù biến chủng này chưa xuất hiện tại Việt Nam, chúng ta vẫn cần tập trung trong việc giám sát và có sự chuẩn bị từ trước.


Ông nói: “Sự chuẩn bị trước chủ yếu là từ chiến lược của Việt Nam trong phòng, chống dịch. Cụ thể là tăng cường tiêm chủng vaccine cho người dân, tiếp tục thực hiện 5K. Ngoài ra, chúng ta phải có chương trình giám sát phát hiện ca bệnh cũng như giám sát biến đổi gene của các biến chủng nhập cảnh”.


Trong trường hợp biến chủng có thể xâm nhập trong tương lai, PGS Hùng cho rằng những biện pháp phòng dịch đang được Việt Nam áp dụng hiện nay vẫn có hiệu quả, bất chấp khả năng lây nhiễm của virus có thể sẽ cao hơn.


“Điều quan trọng nhất là chúng ta phải chủ động giám sát để phát hiện sớm biến chủng mới, tránh để virus xâm nhập sâu vào cộng đồng rồi mới phát hiện. Khi đó, tình hình sẽ rất phức tạp và nguy hiểm”, Phó chủ tịch Hội Kiểm soát Nhiễm khuẩn Hà Nội nhấn mạnh.


Mặt khác, PGS Đỗ Văn Dũng cho rằng một trong những vấn đề đáng lo ngại với Việt Nam khi có biến chủng mới là tình trạng virus xâm nhập từ nước ngoài. Tuy nhiên, năng lực phát hiện biến chủng của Việt Nam không bằng các quốc gia phát triển trên thế giới.


Dù Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương và Viện Pasteur TP.HCM đang nỗ lực rà soát, với số lượng bệnh nhân lớn như thời điểm này, việc phát hiện biến chủng gặp rất nhiều trở ngại.


“Hiện chúng ta vẫn kiểm soát người về từ nước ngoài, yêu cầu nhóm này cách ly, tránh để virus lây lan trong cộng đồng. Do đó, nguy cơ xuất hiện biến chủng nCoV mới tại Việt Nam chưa quá cao. Việt Nam cũng không có quá nhiều sự giao lưu, hợp tác kinh tế với Nam Phi nên chúng ta có thể hy vọng biến chủng mới chưa xâm nhập”, ông Dũng nói thêm.


Theo Trưởng khoa Y tế Công cộng, Việt Nam lúc này vẫn cần tiếp tục cảnh giác với biến chủng mới và theo sát các thông tin từ thế giới.


Theo thông tin từ Bộ Y tế, qua giám sát dịch tễ của SARS-CoV-2, Việt Nam đến nay chưa ghi nhận trường hợp mắc Covid-19 với biến chủng mới Omicron.


Để chủ động kiểm soát tình hình dịch Covid-19 trong nước, đồng thời ngăn chặn nguy cơ xâm nhập và lây lan của biến chủng mới Omicron từ các quốc gia đã ghi nhận và lây lan, Bộ Y tế đã chỉ đạo tăng cường giám sát dịch Covid-19 nhằm phát hiện sớm những dấu hiệu bất thường của các ổ dịch; Yêu cầu Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, Viện Pasteur TP.HCM chủ động giải trình tự gene các trường hợp nghi ngờ nhiễm biến chủng mới, đặc biệt là những trường hợp có tiền sử dịch tễ về từ khu vực Nam Phi.


Bộ Y tế cũng đã báo cáo và đề xuất Chính phủ xem xét chỉ đạo tạm dừng tổ chức các chuyến bay quốc tế đến/đi từ các quốc gia: Nam Phi, Botswana, Namibia, Zimbabwe, Eswatini, Lesotho, Mozambique và tạm dừng cấp phép nhập cảnh với hành khách đến/đi về từ các quốc gia trên.



Chủ Nhật, 28 tháng 11, 2021

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT - NỀN TẢNG LÝ LUẬN CHO XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

 


   Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới, lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam tuy đã đi xa hơn 5 thập niên, nhưng những quan điểm, tư tưởng của Người về nhà nước và pháp luật là di sản vô giá và là nền tảng tư tưởng - lý luận mãi mãi soi đường cho tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


   NHỮNG NỘI DUNG CỐT LÕI TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT


   Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của quá trình vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật là hệ thống các quan điểm về bản chất, vai trò, chức năng của nhà nước và pháp luật, về những yêu cầu, đòi hỏi trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, trong xây dựng và thực thi pháp luật, trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, lãng phí. Tư tưởng đó được biểu hiện cụ thể ở những luận điểm sau:


   Một là, “lấy dân làm gốc” - luận điểm quan trọng hàng đầu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.


   Kế thừa bài học lớn được đúc kết suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Ngay trong Điều thứ 1, Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp do Người trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo soạn thảo đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước Dân chủ Cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. “Dân là gốc”, mọi việc đều bắt nguồn từ dân, làm được hay không cũng là ở nơi dân. Không có nhân dân sẽ không bao giờ có lực lượng cách mạng và phong trào cách mạng. Mắc bệnh quan liêu, nhũng nhiễu không những thể hiện sự xa dân, không nắm được dân, không thực hiện được sự nghiệp cách mạng cao cả mà còn làm cho dân mất niềm tin, xa Đảng và chế độ. Muốn thực sự lấy dân làm gốc, thực sự gần dân thì: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh... Nói tóm lại, muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”.


   Xây dựng Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trên nền tảng Hiến pháp dân chủ và các đạo luật, do Đảng Cộng sản lãnh đạo là nội dung trọng tâm xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Người khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân”. “Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”. Nhà nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng là Nhà nước đảm nhiệm vai trò “gánh việc chung cho dân”, chăm lo cuộc sống cho nhân dân và mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Đó là Nhà nước lấy mối lo của nhân dân là mối lo của mình, lấy vấn đề của nhân dân là vấn đề của mình cần giải quyết, lấy hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu phấn đấu. Người từng khẳng định: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó”. Nhà nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng là Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Người từng khẳng định: “Dù nhân dân đã nắm chính quyền, nhưng giai cấp đấu tranh trong nước và mưu mô đế quốc xâm lược vẫn còn. Vì phải xây dựng kinh tế, quốc phòng, văn hóa, xã hội cho nên Đảng vẫn phải tổ chức, lãnh đạo, giáo dục quần chúng, để đưa nhân dân lao động đến thắng lợi hoàn toàn”. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nhằm bảo đảm Nhà nước ta luôn thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.


   Hai là, về tổ chức bộ máy nhà nước đặc sắc, mạnh mẽ và sáng suốt.


   Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật thể hiện trong những quy định về tổ chức bộ máy nhà nước do Người trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thiết kế. Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thiết kế mô hình tổ chức bộ máy nhà nước rất đặc sắc, thể hiện trong nội dung các bản hiến pháp và các sắc lệnh, đạo luật lúc Người còn sinh thời. Hiến pháp năm 1946 được xem là một bản Hiến pháp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Hồ Chí Minh “một bản Hiến pháp cô đúc, khúc chiết, mạch lạc và dễ hiểu với tất cả mọi người. Đó là một bản Hiến pháp mẫu mực trên nhiều phương diện”. Hiến pháp năm 1946 đã được thiết kế theo tư tưởng dân chủ, pháp quyền, tạo nên nguyên tắc và phương thức tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước sao cho lạm quyền, lộng quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm. Bộ máy nhà nước có các thành tố cơ bản như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân và chính quyền địa phương được tổ chức trên nguyên tắc: “Đoàn kết toàn dân...; Đảm bảo các quyền tự do dân chủ; Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”, được thể hiện trong Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946. Với mỗi thành tố cơ bản trong bộ máy nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều có những chỉ dẫn khá cụ thể về cách thức tổ chức và hoạt động, bảo đảm các thành tố đó thể hiện được bản chất của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Theo đó, Quốc hội (mà Hiến pháp năm 1946 gọi là Nghị viện nhân dân) được hiến định là “cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”(Điều thứ 22), giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc; Chính phủ là “Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc” (Điều thứ 43); Tòa án: “Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp” (Điều thứ 69). Trong tổ chức quyền lực nhà nước, Hiến pháp năm 1946 đã có sự phân công khá rạch ròi giữa lập pháp (Nghị viện), hành pháp (Chính phủ), tư pháp (Tòa án), đồng thời có sự kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan này. Với chính quyền địa phương, Người đã quan tâm thiết kế mô hình chính quyền địa phương có tính tới đặc điểm khác biệt của nông thôn và đô thị.


   Ba là, về xây dựng đội ngũ cán bộ trong bộ máy nhà nước, đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, “trung với nước, hiếu với dân”, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện.


   Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật còn chứa đựng những quan điểm rất sâu sắc của Người về cán bộ và công tác cán bộ. Với Người: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Chính vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác cán bộ và đặt yêu cầu cao với đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước, trong đó, tiêu chuẩn hàng đầu phải là “trung với nước, hiếu với dân”, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”, “đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết. Vì lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc”; “Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”. Người đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, “kiên quyết sửa chữa khuyết điểm”, nhất là “ba chứng bệnh rất nguy hiểm” là “bệnh chủ quan” (với các biểu hiện như “kém lý luận”, “khinh lý luận” hoặc “lý luận suông”), “bệnh hẹp hòi” (với các biểu hiện như “chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi”; tự tôn, tự đại, khinh rẻ người ta, không muốn biết, muốn học những ưu điểm của người khác”), thói ba hoa. Riêng với chủ nghĩa cá nhân, Người cho rằng đây là “một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm” như “bệnh tham lam”, “bệnh lười biếng”, “bệnh kiêu ngạo”, “bệnh hiếu danh”, “thiếu kỷ luật”, “óc hẹp hòi”, “óc địa phương”, “óc lãnh tụ”. Người cũng chỉ ra những “bệnh” khác mà cán bộ, đảng viên cần kiên quyết sửa chữa là bệnh “hữu danh, vô thực”, “kéo bè kéo cánh”, “không trông xa thấy rộng”, bệnh “cá nhân”, “bệnh lười biếng”, “bệnh tị nạnh”, “bệnh xu nịnh, a dua”. Điều đặc biệt là, đối với từng lĩnh vực cụ thể, Người còn có những điều căn dặn riêng đối với tiêu chuẩn cán bộ trong lĩnh vực ấy. Đối với các cơ quan dân cử, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng những người đại biểu cho nhân dân phải là người “có tài, có đức”; “xứng đáng thay mặt” cho nhân dân. “Những người trúng cử, sẽ phải ra sức giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, ra sức mưu sự hạnh phúc cho đồng bào. Phải luôn luôn nhớ và thực hành câu: Vì lợi nước, quên lợi nhà; vì lợi chung, quên lợi riêng”. “Những ai muốn làm quan cách mạng thì nhất định không nên bầu”. Đối với Tòa án nhân dân, cán bộ phải “công bằng, liêm khiết, trong sạch”, “cần, kiệm, liêm, chính”, “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”. Đối với Viện Kiểm sát nhân dân, cán bộ phải “công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”,... Người cũng có những chỉ dẫn rất cụ thể về việc “huấn luyện cán bộ” (với tinh thần “làm việc gì học việc ấy”), “dạy cán bộ và dùng cán bộ” (“phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”, “phải biết rõ cán bộ”, “phải cất nhắc cán bộ một cách cho đúng”, “phải khéo dùng cán bộ”, “phải phân phối cán bộ cho đúng”, “phải giúp cán bộ cho đúng”, “phải giữ gìn cán bộ”, “thương yêu cán bộ”, “phê bình cán bộ”). Người căn dặn phải tránh những chứng bệnh trong dùng cán bộ như: “Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người ngoài... Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình, mà chán ghét những người chính trực... Ham dùng những người tính tình hợp với mình, mà tránh những người tính tình không hợp với mình”. Theo Người, muốn dùng cán bộ đúng thì: “Mình phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể đối với cán bộ một cách chí công vô tư, không có thành kiến, khiến cho cán bộ khỏi bị bỏ rơi. Phải có tinh thần rộng rãi, mới có thể gần gụi những người mình không ưa. Phải có tính chịu khó dạy bảo, mới có thể nâng đỡ những đồng chí còn kém, giúp cho họ tiến bộ. Phải sáng suốt, mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán bộ tốt. Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, các đồng chí mới vui lòng gần gụi mình... Muốn cán bộ làm được việc, phải khiến cho họ yên tâm làm việc, vui thú làm việc”.


   Bốn là, về phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.


   Người có nhiều bài nói, viết về phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu và coi tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là giặc nội xâm, là “bạn đồng minh của thực dân, phong kiến”, “là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ” và đòi hỏi “phải tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu”. Chính vì thế, trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, phải kiên quyết chống cho được tham ô, lãng phí, quan liêu. Công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước ta do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát động đã và đang triển khai rất quyết liệt được đảng viên, cán bộ và nhân dân đồng tình, hưởng ứng ủng hộ cao chính là sự kế tục tư tưởng và làm theo chỉ dẫn của Bác.


   Năm là, về xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực thi nghiêm minh pháp luật.


   Với tinh thần “Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực thi nghiêm minh pháp luật. Người từng nói: “Trong một nước thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn”. Người cho rằng, pháp luật là công cụ cần thiết để “giữ gìn quyền lợi của nhân dân”, duy trì trật tự xã hội và phải cố gắng làm cho luật pháp dân chủ ngày càng nhiều hơn, tốt hơn. Pháp luật cần chứa đựng những giá trị công bằng, nhân văn, chính nghĩa, vì nhân dân lao động và vì con người được ghi nhận trong Hiến pháp và các đạo luật. Pháp luật cần được xây dựng để trước hết điều chỉnh tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, điều chỉnh hành vi của cán bộ, công chức nhà nước để bảo đảm cho nhân dân có được chính quyền với “mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người... đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy”, có “Chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài... biết làm việc”; “ai nấy đều hứa sẽ cố gắng làm việc, một lòng vì nước, vì dân”; thực hiện phương châm: “việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Pháp luật cần được xây dựng để bảo đảm cho người dân được hưởng tự do, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Pháp luật cũng cần được hình thành bằng con đường dân chủ với sự tham gia đóng góp ý kiến rộng rãi của nhân dân, đồng thời phải bảo đảm tính khả thi, phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước. Các bản Hiến pháp do Người trực tiếp chỉ đạo quá trình soạn thảo đều được xây dựng bằng con đường thảo luận, bàn bạc hết sức dân chủ, có sự tham gia ý kiến rộng rãi của nhân dân.


    Ngoài ra, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật còn chứa đựng những quan điểm rất đặc sắc về kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ quyền con người, quyền trẻ em, quan điểm về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, quan điểm về pháp luật điều chỉnh hoạt động tôn giáo, quan điểm về luật sư, thượng tôn luật pháp quốc tế,...


    Thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới


    Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn trân trọng, thấm nhuần và nỗ lực vận dụng sáng tạo những giá trị cốt lõi, nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Trong hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm nghiên cứu, kế thừa, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật để lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cùng hệ thống pháp luật ngày càng đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch hơn. Tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (từ ngày 20 đến ngày 25-1-1994), Đảng ta chính thức chủ trương xây dựng “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Chủ trương đó được khẳng định nhất quán trong các văn kiện Đại hội VIII, IX, X của Đảng. Đến Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta chính thức khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011): “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo” là một trong 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang nỗ lực xây dựng.


    Kế thừa các bản Hiến pháp trước đó, nhất là bản Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo khởi thảo, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện được ý Đảng, lòng dân, tinh thần dân chủ, đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Hiến pháp năm 2013 khẳng định rõ “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” (khoản 1, Điều 2). “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (khoản 3, Điều 2). “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3). “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6). “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín... Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân” (Điều 7). “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ... Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”(Điều 8). Đến nay, hệ thống các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương đã được tổ chức chặt chẽ, đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước và xã hội, bao gồm cơ quan thực hiện quyền lập pháp (Quốc hội), Chủ tịch nước, cơ quan thực hiện quyền hành pháp (Chính phủ), cơ quan thực hiện quyền tư pháp (Tòa án nhân dân), hệ thống Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán nhà nước, hệ thống chính quyền địa phương (Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân) tại cấp tỉnh, huyện, xã. Tại một số địa phương như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng tổ chức hoặc thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị. Đi kèm với đó là đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và nguồn lực tài chính cùng các điều kiện bảo đảm đủ sức thực hiện các nhiệm vụ chính trị và chuyên môn được giao.


    Bám sát chủ trương của Đảng, trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) trước đây và Hiến pháp năm 2013, chúng ta đã xây dựng được hệ thống pháp luật cơ bản đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, tạo hành lang pháp lý để phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Cho tới nay, bên cạnh các đạo luật mang tính rường cột của nước nhà, như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Bộ luật Lao động, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Tố tụng hành chính, hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội đều có các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh. Đi kèm với hệ thống các đạo luật này là hàng loạt văn bản hướng dẫn thi hành cần thiết nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc để nhân dân thực hiện quyền làm chủ và để Nhà nước thực hiện vai trò quản lý xã hội. Có thể nói, những thành tựu ấy là minh chứng cụ thể của việc Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang học tập, làm theo và vận dụng sáng tạo di sản tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại, trong đó có di sản tư tưởng về nhà nước và pháp luật.


    Mặc dù vậy, tiến trình xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế, đòi hỏi công tác xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, lãng phí cần có những bước phát triển vững chắc hơn nữa. Bộ máy nhà nước ở một số nơi tổ chức chưa được hợp lý, hiệu lực, hiệu quả chưa cao, thủ tục hành chính trong không ít lĩnh vực còn rườm rà; năng lực, phẩm chất, ý thức kỷ luật của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu cầu; còn tình trạng nhũng nhiễu, “tham nhũng vặt” gây bức xúc cho người dân, doanh nghiệp, tính thượng tôn pháp luật chưa cao, kỷ luật, kỷ cương nhiều nơi chưa nghiêm. Đây là những vấn đề rất cần vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật để xử lý, chấn chỉnh, nhất là trong việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cải cách pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, thúc đẩy lối sống thượng tôn pháp luật và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc.


   TIẾP TỤC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


   Xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, có thể thấy rằng, việc tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời gian tới, cần thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau:


   Thứ nhất, tiếp tục tuyên truyền, phổ biến và quán triệt vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật nói riêng và tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân để tư tưởng này thấm sâu trong nhận thức và hành động của mỗi cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân. Bảo đảm thực hiện có hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật cần được trình bày một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ hơn nữa trong các giáo trình về nhà nước và pháp luật được giảng dạy tại các cơ sở đào tạo chính trị, pháp luật, hành chính và trong giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh được giảng dạy trong hệ thống giáo dục quốc dân ở nước ta trong thời gian tới.


   Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI và khóa XII, nhằm nâng cao uy tín và củng cố vai trò, vị thế lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Phát huy đúng mức vai trò lãnh đạo, kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước. Tăng cường rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, bảo đảm đội ngũ này thấm nhuần sâu sắc đạo đức cách mạng và gương mẫu trong việc tuân thủ, chấp hành pháp luật. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xóa tan tâm lý nghi ngại cho rằng, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực sẽ làm cản trở phát triển, làm chùn bước sự sáng tạo của cá nhân; khắc phục tâm lý e ngại còn khá phổ biến trong đấu tranh, phát hiện tham nhũng, tiêu cực trong nội bộ cơ quan, đơn vị. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ chế phát huy vai trò của nhân dân và các cơ quan đại diện cho nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nhất là trong giám sát, phát hiện, tố cáo tham nhũng, tiêu cực.


   Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013. Củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thực sự thấm nhuần lời dạy của Người: “không được rời xa dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại”. Thực hiện có hiệu quả trong thực tế các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện (trong đó có dân chủ ở cơ sở). Phát huy vai trò chủ động, tích cực của nhân dân trong việc thực hành dân chủ và xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, hiệu lực, hiệu quả. Đây cũng chính là sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật trong thực tiễn, bởi: “chữ DÂN là điểm quy tụ tất cả mọi suy tư, mọi hành động trong sự nghiệp Hồ Chí Minh, là tất cả trong cuộc đời Hồ Chí Minh. Trong ngôn ngữ Hồ Chí Minh, trong bảng từ vựng của Người, chữ DÂN được sử dụng nhiều nhất, có tần số lớn nhất. Người nhắc tới đạo làm người, Người tìm thấy Đường cách mạng cũng là để vạch ra chương trình hành động vì dân. Bởi thế, Người dành trọn cuộc đời và sự nghiệp để thực hành triết lý thân dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên”.


   Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, giữ vững bản chất của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của Nhà nước. Phân định rõ hơn chức năng, quyền hạn và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tăng cường tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của hệ thống chính trị nói chung và bộ máy nhà nước nói riêng. Bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, tăng cường sự giám sát từ phía nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Tổ chức hợp lý mô hình chính quyền địa phương có tính tới sự khác biệt của địa bàn nông thôn và đô thị. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế giám sát cán bộ, đảng viên, công chức từ phía cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, nhất là từ tổ chức đảng, bảo đảm việc phòng ngừa và khắc phục sự suy thoái trong Đảng. Trước mắt, cần thực hiện đúng và đầy đủ những định hướng lớn của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.


   Thứ năm, tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta hiện nay. Lãnh đạo các cấp cần thấm nhuần sâu sắc và triệt để làm theo tư tưởng của Bác về “khéo dùng cán bộ”. Trước hết, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị trong bộ máy nhà nước và trong hệ thống chính trị phải thực hành những điểm sau: “Khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến... Khiến cho cán bộ có gan phụ trách, có gan làm việc... Không nên tự tôn, tự đại, mà phải nghe, phải hỏi ý kiến của cấp dưới... Phải có gan cất nhắc cán bộ - Cất nhắc cán bộ, phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái”.


   Thứ sáu, cần quán triệt sâu sắc hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật, với tinh thần “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, Việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”, sớm xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận với chi phí tuân thủ thấp, có hiệu lực, hiệu quả cao, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chú trọng bảo đảm quyền con người, phát huy quyền tự do, dân chủ của nhân dân đã được đề ra trong các chủ trương, nghị quyết của Đảng và Hiến pháp năm 2013, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp, kiên quyết, kiên trì thực hiện các giải pháp phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, bảo đảm xây dựng bộ máy nhà nước thực sự trong sạch, vận hành thông suốt, hiệu lực, hiệu quả vì nhân dân. Tiếp tục thể chế hóa đầy đủ và sâu sắc hơn nữa trong các văn bản quy phạm pháp luật về chuẩn mực đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh để những tiêu chuẩn đạo đức cách mạng đó ngày càng thấm sâu trong ứng xử thường nhật của cán bộ, công chức, viên chức khi thực hiện nhiệm vụ, chức trách được giao.


   Thời gian qua, chúng ta đã nỗ lực thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020. Hiện nay chúng ta đang tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam tới năm 2030 và tầm nhìn tới năm 2045 với nhiều chủ trương, định hướng lớn. Đây chính là cơ hội để những người làm công tác hoạch định chính sách, xây dựng và thực thi pháp luật vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật trong thực tiễn công tác của mình. Chắc chắn, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật đã, đang và sẽ mãi mãi soi sáng tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân./.

THẮT CHẶT QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN VIỆT NAM - LB NGA

 

Hôm nay (29-11), Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam thăm chính thức Liên bang (LB) Nga theo lời mời của Tổng thống LB Nga Vladimir Putin.


Chuyến thăm chính thức LB Nga đầu tiên của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc trên cương vị mới, từ ngày 29-11 đến 2-12, diễn ra trong bối cảnh hai nước đang kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược (2001-2021).


Lịch sử cho thấy mối quan hệ giữa Việt Nam với Liên Xô và với LB Nga ngày nay luôn nồng ấm, tin cậy, vượt qua mọi thử thách của thời gian và sự biến động của thời đại. Liên Xô là một trong những nước đầu tiên trên thế giới công nhận và chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào ngày 30-1-1950, đặt nền móng cho tình hữu nghị bền chặt và quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa hai nước sau này.


Quan hệ hai nước bước vào giai đoạn phát triển mới sau khi ký Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và LB Nga ngày 16-6-1994. Khuôn khổ quan hệ Việt Nam-LB Nga trong thế kỷ 21 đã được chính thức hóa bằng việc ký Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược nhân dịp Tổng thống V.Putin thăm Việt Nam (từ ngày 28-2 đến 2-3-2001). Ngày 27-7-2012, hai nước ra Tuyên bố chung về tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. 


Trong những năm qua, trao đổi đoàn cấp cao diễn ra thường xuyên, tạo động lực mạnh mẽ cho việc phát triển quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và LB Nga, trong đó có thể kể đến chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống V.Putin (năm 2001, 2006, 2013), của Thủ tướng D.Medvedev (năm 2012, 2015, 2018); các chuyến thăm LB Nga của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (năm 2014, 2018), của Thủ tướng (nay là Chủ tịch nước) Nguyễn Xuân Phúc (năm 2016, 2019)...


Từ năm 2020, mặc dù đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, các cuộc tiếp xúc cấp cao giữa các lãnh đạo chủ chốt của hai nước vẫn được duy trì thường xuyên thông qua điện đàm, hội nghị trực tuyến, như: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng điện đàm với Tổng thống V.Putin (tháng 4-2021), Phó chủ tịch Hội đồng an ninh Nga, Chủ tịch Đảng nước Nga thống nhất D.Medvedev (tháng 2-2021); Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc điện đàm với Tổng thống V.Putin (tháng 9-2021); Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ điện đàm với Chủ tịch Hội đồng Liên bang Nga Valentina Matvienko (tháng 6-2021)...


Bên cạnh đó, hai bên duy trì nhiều cơ chế phối hợp và đối thoại như Đối thoại chiến lược Ngoại giao-Quốc phòng-An ninh thường niên cấp Thứ trưởng thường trực Ngoại giao; Đối thoại chiến lược quốc phòng cấp Thứ trưởng Quốc phòng... Hai bên đồng quan điểm về nhiều vấn đề quốc tế và khu vực, phối hợp chặt chẽ và ủng hộ nhau trên các diễn đàn quốc tế, như: Liên hợp quốc, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, Diễn đàn hợp tác Á-Âu, Diễn đàn khu vực ASEAN...


Quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam-LB Nga thời gian qua phát triển năng động, nhất là khi Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á-Âu có hiệu lực từ tháng 10-2016. Kim ngạch thương mại song phương năm 2020 đạt gần 4,85 tỷ USD, tăng gần 9% so với năm 2019.


Trong 9 tháng đầu năm 2021, kim ngạch thương mại song phương đạt 3,6 tỷ USD, tăng gần 5% so với cùng kỳ năm 2020. Về đầu tư, tính đến tháng 4-2021, LB Nga đứng thứ 25 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 144 dự án và tổng số vốn đăng ký khoảng 944 triệu USD.


Bên cạnh việc triển khai những dự án trong các lĩnh vực hợp tác truyền thống như năng lượng, dầu khí, hai bên đang mở rộng hợp tác sang các lĩnh vực mới mà Nga có thế mạnh và Việt Nam có nhu cầu như khoa học công nghệ cao và nghiên cứu khoa học, thúc đẩy các dự án trọng điểm, khuyến khích và tạo điều kiện cho các liên doanh Việt-Nga cũng như doanh nghiệp hai nước đầu tư vào mỗi nước.


Kể từ khi dịch Covid-19 bùng phát cho đến nay, hai nước phối hợp chặt chẽ trong ứng phó dịch bệnh, đặc biệt trong cung ứng và chuyển giao công nghệ, sản xuất vaccine ngừa Covid-19 trong giai đoạn hiện nay, bắt đầu triển khai các hợp đồng cung cấp vaccine Sputnik V của Nga cho Việt Nam và hợp tác sản xuất vaccine Nga tại Việt Nam. 


Hợp tác giáo dục-đào tạo tiếp tục là điểm sáng trong quan hệ hai nước. Trước đây, Liên Xô đã giúp Việt Nam đào tạo gần 40.000 cán bộ và chuyên gia giỏi thuộc nhiều chuyên ngành. Hiện nay, LB Nga tiếp tục hỗ trợ Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực.


Từ năm 2019, LB Nga đã tăng số học bổng cho Việt Nam lên khoảng 1.000 suất/năm. Hiện có khoảng hơn 5.000 sinh viên Việt Nam du học tại Nga. Các hoạt động giao lưu văn hóa được tổ chức thường xuyên, góp phần tăng cường hiểu biết, hữu nghị giữa nhân dân hai nước. 


Cùng với sự phát triển tốt đẹp của quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời, đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-LB Nga, quan hệ quốc phòng song phương tiếp tục được củng cố và tăng cường theo tinh thần “tin cậy, thiết thực, toàn diện, hiệu quả”.


Việt Nam và LB Nga duy trì Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác kỹ thuật quân sự cấp Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Hai bên đã tiến hành Đối thoại chiến lược Quốc phòng cấp Thứ trưởng, gần đây nhất diễn ra vào tháng 12-2019. Hai bên tiếp tục ủng hộ và tích cực tham gia các hoạt động đa phương quốc tế do Bộ Quốc phòng hai nước tổ chức, nhất là trong khuôn khổ Hội thao Quân sự quốc tế (Army Games).


Do yếu tố lịch sử, cộng đồng người Việt Nam đã tồn tại và làm ăn, sinh sống tại LB Nga 3 thập kỷ. Với số lượng khoảng 60.000-80.000 người, cộng đồng người Việt Nam tại LB Nga có những đóng góp đáng kể cho đất nước, luôn đi đầu trong các hoạt động từ thiện. Họ chính là những cầu nối quan trọng, thúc đẩy quan hệ song phương Việt Nam-LB Nga phát triển trên mọi lĩnh vực. 


Trong bối cảnh quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước phát triển mạnh mẽ, chúng ta tin tưởng rằng, chuyến thăm chính thức LB Nga của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc sẽ thành công tốt đẹp, góp phần thắt chặt quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hai nước trong nhiều lĩnh vực hợp tác, như: Chính trị, thương mại-đầu tư, quốc phòng-an ninh, giáo dục-đào tạo, văn hóa, du lịch... đồng thời khẳng định chủ trương nhất quán của Việt Nam coi LB Nga là đối tác ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại.



Quang cảnh buổi hội kiến giữa hai nhà lãnh đạo Việt Nam-Nga hồi tháng 5 năm 2019. Ảnh:TTXVN

Thứ Bảy, 27 tháng 11, 2021

HÀNH TRÌNH THEO CHÂN BÁC HỒ

 



Ngày 28 tháng 11 - “Phải dùng đắng cay, đủ ngày mới khỏi bệnh”


Cách đây 95 năm, ngày 28-11-1926, báo Thanh Niên xuất bản tại Quảng Châu đăng bài “Người An Nam ở Xiêm” ký tên Nguyễn Ái Quốc. Là một người có nhiều năm hoạt động trong cộng đồng Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan), tác giả phân tích thân phận của 3 vạn người Việt đã “lưu ly thất dở, tan cửa nát nhà, phải bỏ quê cha đất tổ, dạt ra đất khách quê người”.


Nhưng bài báo cũng thẳng thắn phê phán một tập tính xấu có hại cho mục tiêu vận động đoàn kết cứu nước của cộng đồng này là: “Tình cảnh người mình như vậy đều là lưu lạc quê người, cứ kể bình thường thì người An Nam ở Xiêm trông thấy nhau nên thương yêu nhau, giúp nhau là phải, nào ngờ vẫn giữ lấy cái thói dã man nào lương giáo giết nhau, lợi hại tranh nhau, lừa đảo nhau, chém giết nhau đến nỗi đem nhau đi kiện cáo cho Xiêm, Lào sỉ nhục... Nói ra thật đau lòng”.


Ngày 28-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ ấn định chính sách ngoại giao: “Với Pháp, nguyên tắc của Chính phủ là: a) Nhất quyết đòi độc lập; b) Chỉ có thể nhượng bộ ít nhiều về văn hóa. Với Trung Hoa, cùng một nguyên tắc là không nhượng bộ về vấn đề độc lập của Việt Nam”.


Ngày 28-11-1948, Bác gửi thư tới cụ Lê Thước, một nhân sĩ và là Chủ tịch Ủy ban Tăng gia sản xuất của tỉnh Thanh Hóa để giải thích ý nghĩa chính sách giảm tô của Chính phủ. Thư viết: “Giảm địa tô 25% đã công bình và lợi cho cả điền chủ lẫn nông dân, thì không lẽ gì mà sinh ra mối chia rẽ...; càng không có lẽ gì mà các điền chủ lại chán nản, hoăc bỏ ruộng không cày. Lực lượng kháng chiến chống ngoại xâm, một phần là nhờ “giới hữu sản nông dân”, nhưng phần lớn cũng nhờ giới trung nông và bần nông. Người có tiền giúp tiền, người có sức giúp sức. Thế là đại đoàn kết”. Cuối thư, Bác nhờ cụ Lê Thước giải thích cho các vị điền chủ nào hiểu chưa thấu đáo chính sách của Nhà nước.


Ngày 28-11-1954, Bác viết bài “Thầy thuốc nói” đăng trên báo Nhân Dân, hàm ý: “Trải qua 80 năm mất nước, 15 năm bị chiến tranh tàn phá, hậu quả về các mặt kinh tế, xã hội rất nặng nề. Cũng như nhiều nước khác, việc khôi phục kinh tế, xã hội phải có thời gian phấn đấu gian khổ, ví như việc chữa bệnh của thầy thuốc, phải dùng đắng cay đủ ngày mới khỏi bệnh”.


Ngày 28-11-1959, báo Nhân Dân đăng bài “Tết trồng cây”. Bắt nguồn từ mục tiêu lấy gỗ xây nhà cho nông dân, Bác phát động “Tết trồng cây” và mong muốn vào dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng sẽ khởi động cho một tập quán mới và xác định: “Đó cũng là một cuộc thi đua dài hạn nhưng nhẹ nhàng mà tất cả mọi người - từ các cụ phụ lão đến các em nhi đồng, đều có thể hăng hái tham gia”.


Ngày 28-11-1965, Bác gửi thư khen ngợi quân dân Yên Bái có thành tích bắn rơi chiếc máy bay thứ 800 của giặc Mỹ trên bầu trời miền Bắc nước ta.


TIẾP TỤC XÂY DỰNG, PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CÁC KHU KINH TẾ - QUỐC PHÒNG Ở ĐỊA BÀN CHIẾN LƯỢC, BIÊN GIỚI, BIỂN, ĐẢO

 



   Xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng ở địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo là chủ trương chiến lược của Đảng, Nhà nước. Những năm gần đây, các khu kinh tế này đã và đang phát huy tốt tiềm năng, thế mạnh trên các địa bàn chiến lược của Tổ quốc. Điều đó đặt ra yêu cầu đối với các cấp, các ngành, Quân đội, địa phương phải chung tay xây dựng, phát huy vai trò của các khu kinh tế - quốc phòng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.


   Thực hiện Quyết định số 277/2000/QĐ-TTg, ngày 31/3/2000, Quyết định số 43/2002/QĐ-TTg, ngày 21/3/2002 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt bổ sung Đề án quy hoạch tổng thể các khu các khu kinh tế - quốc phòng; Nghị định số 164/2018/NĐ-CP, ngày 21/12/2018 của Chính phủ về kết hợp quốc phòng với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với quốc phòng; Quyết định số 49/QĐ-TTg, ngày 24/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về điều chỉnh quy hoạch các khu kinh tế - quốc phòng đến năm 2025 và các văn bản pháp quy khác có liên quan, đến nay, Quân đội mà trực tiếp là các đoàn kinh tế - quốc phòng đã phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng, phát triển các khu kinh tế - quốc phòng trên địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo và đã mang lại hiệu quả thiết thực. Qua đó, góp phần kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, an ninh, tạo nên diện mạo, thế và lực mới cả về chính trị, kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo.


   Các đoàn kinh tế - quốc phòng chủ động phối hợp với địa phương tiến hành khảo sát, quy hoạch, đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội; kết hợp tổ chức, bố trí lại dân cư trên địa bàn, từng bước hình thành các thôn, bản, điểm, cụm dân cư tập trung trên vành đai biên giới, địa bàn xung yếu, tạo hành lang bảo vệ chủ quyền quốc gia. Trên hướng biển, đảo, những năm gần đây, Đảng ta chủ trương phát triển khu kinh tế - quốc phòng trên vùng biển, đảo gắn với bảo vệ chủ quyền nơi đây; nhiều đoàn kinh tế - quốc phòng ra đời làm nhiệm vụ khai thác, chế biến hải sản và là điểm tựa cho ngư dân vươn khơi, bám biển, nuôi trồng thủy, hải sản. Tại các khu, đoàn kinh tế - quốc phòng đã triển khai chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, xóa đói, giảm nghèo giúp nhân dân phát triển sản xuất, ổn định cuộc sống, khắc phục tình trạng di cư tự do. Đến nay, các khu kinh tế - quốc phòng đã đỡ đầu, đón hơn 100.000 hộ dân vào sinh sống; hình thành hơn 500 thôn, bản, điểm dân cư tập trung mới với 32.000 hộ dân. Cùng với đó, các đoàn kinh tế - quốc phòng thực hiện tốt chương trình quân, dân y kết hợp, tổ chức khám, chữa bệnh cho bộ đội và nhân dân; phối hợp chặt chẽ với địa phương, Bộ đội Biên phòng tham gia xây dựng, củng cố hệ thống chính trị, chính quyền cơ sở và thế trận quốc phòng - an ninh vững chắc. Từ năm 1999 đến nay, Bộ đội Biên phòng tăng cường hàng nghìn cán bộ cho các xã biên giới, xã đặc biệt khó khăn thuộc các tỉnh biên giới, trở thành chỗ dựa tin cậy, vững chắc cho chính quyền địa phương khu vực biên giới trong phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh ở cơ sở.


   Tuy nhiên, so với yêu cầu đề ra, quá trình xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng cũng còn những hạn chế nhất định nên chưa phát huy hết vai trò trong thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng - an ninh trên địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo. Tiến độ xây dựng một số dự án khu kinh tế - quốc phòng còn chậm so với quy hoạch đã được phê duyệt; cơ cấu phân bổ vốn đầu tư một số dự án chưa thật hợp lý, chủ yếu tập trung vào cơ sở hạ tầng. Một số mô hình sản xuất, chế biến mới được triển khai thực hiện, nên còn lúng túng, chưa phát huy được tiềm năng, thế mạnh. Việc thực hiện mục tiêu giúp dân phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo ở một số khu kinh tế - quốc phòng vùng biên giới hiệu quả chưa cao, v.v.


   Để kịp thời tháo gỡ các vướng mắc, hạn chế, đẩy nhanh tốc độ xây dựng và phát huy vai trò của các khu kinh tế - quốc phòng ở địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo trong thời gian tới, bài viết đề xuất một số giải pháp sau:


   Một là, tiếp tục rà soát quy hoạch tổng thể, quan tâm hơn nữa phân bổ ngân sách, vốn đầu tư, huy động tối đa các nguồn lực cho xây dựng, phát triển các khu kinh tế - quốc phòng. Trên cơ sở xác định địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo, Bộ Quốc phòng phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành có liên quan tiếp tục rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể, chi tiết các khu kinh tế - quốc phòng, trên cơ sở khảo sát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và các nguồn lực phát triển dự án. Tiến hành đánh giá đúng hiệu quả của từng chương trình, dự án đã và đang thực hiện; kiên quyết chấn chỉnh, tạm dừng hoặc loại bỏ những dự án chưa đủ luận chứng kinh tế kỹ thuật, hiệu quả về phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh không cao. Nguồn vốn cho đầu tư xây dựng, phát triển các khu kinh tế - quốc phòng ngoài nguồn cấp từ ngân sách Nhà nước còn có thể huy động từ nguồn xã hội hóa, nguồn vốn tín dụng từ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng chính sách trên địa bàn, tiết kiệm của nhân dân và vốn đầu tư các chương trình xóa đói, giảm nghèo, phủ xanh đất trống, đồi trọc của Chính phủ. Việc phê duyệt và giải ngân cho các dự án phải được tiến hành trên cơ sở chế độ quy định của Nhà nước, Bộ Quốc phòng và khả năng nguồn vốn huy động. Cần tập trung nguồn vốn để giải quyết dứt điểm các dự án được Chính phủ và Bộ Quốc phòng phê duyệt, tránh tình trạng đầu tư nhỏ giọt, dàn trải; khắc phục vấn đề thiếu vốn, chờ vốn, kéo dài thời gian hoàn thành dự án. Trên các địa bàn dân cư, thành lập các hội, quỹ tín dụng nhân dân do đoàn kinh tế - quốc phòng hay chính quyền địa phương quản lý để huy động nguồn vốn nhàn rỗi đầu tư cho quá trình phát triển. Thông qua các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, các cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát tiến độ, hiệu quả các hạng mục công trình; uốn nắn và xử lý kịp thời những vấn đề nảy sinh ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả của khu kinh tế - quốc phòng.


   Hai là, tạo hành lang pháp lý, điều kiện thuận lợi cho các đoàn kinh tế - quốc phòng làm các dự án vừa và nhỏ gắn với địa bàn sản xuất, hỗ trợ hoạt động sản xuất tại địa phương. Nhà nước và Bộ Quốc phòng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ khung pháp lý, ban hành kịp thời các chính sách đối với nhiệm vụ xây dựng và phát huy các khu kinh tế - quốc phòng. Các văn bản quy phạm pháp luật nhằm thực hiện chính sách quản lý của Nhà nước đối với hoạt động của khu kinh tế - quốc phòng giúp cho các đoàn kinh tế - quốc phòng hoạt động theo đúng khuôn khổ của pháp luật, quy định của Bộ Quốc phòng và mang lại hiệu quả cao. Bởi vì, từ chức năng quản lý và công cụ quản lý vĩ mô thông qua hệ thống pháp luật Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt cho các đoàn kinh tế - quốc phòng triển khai thực hiện nhiệm vụ; khai thác hết các tiềm năng, thế mạnh, tổ chức quy hoạch phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội, quy hoạch dân cư theo yêu cầu của sản xuất và quốc phòng, an ninh cả trước mắt và lâu dài. Vì vậy, cần hoàn thiện thủ tục pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các đoàn kinh tế - quốc phòng hoạt động, nhất là chính sách về đất đai. Cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng kết nối với các cơ quan liên quan của Bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện các dự án, chương trình, mục tiêu quốc gia, khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư; xây dựng vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa, đưa chương trình, dự án vào các đoàn kinh tế - quốc phòng sao cho thiết thực, hiệu quả. Kết hợp hoạt động kinh tế với hoạt động quốc phòng một cách sáng tạo, linh hoạt, sẵn sàng chuyển trạng thái khi cần thiết để bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia, vùng biển, đảo của Tổ quốc.


   Ba là, tiếp tục xây dựng, phát triển mô hình các đoàn kinh tế - quốc phòng phù hợp với đặc điểm từng địa bàn. Theo đó, có thể thực hiện theo hình thức đoàn kinh tế - quốc phòng không tổ chức sản xuất tập trung và đoàn kinh tế - quốc phòng sản xuất tập trung. Đối với hình thức không tổ chức sản xuất tập trung, cần thực hiện tốt hơn nữa mô hình làm dịch vụ hai đầu cho dân. Mỗi đoàn phải có ít nhất 1 xí nghiệp chế biến, cung cấp giống làm dịch vụ sản xuất, nhằm tăng cường hiệu quả hỗ trợ kinh tế hộ gia đình; gắn kết các đầu mối theo mô hình đoàn kinh tế - quốc phòng + nhà khoa học + doanh nghiệp + hộ dân. Hiện nay, đã có một số mô hình triển khai thực hiện tốt, như: mô hình cho dân vay bò sinh sản của Đoàn B27/Quân khu 3; mô hình doanh nghiệp dịch vụ hai đầu ở Đoàn kinh tế - quốc phòng Tân Hồng (Đồng Tháp); mô hình trồng cây ăn quả của Đoàn B38/Quân khu 1. Đối với hình thức sản xuất tập trung, từng bước đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ gia đình, thông qua đẩy nhanh tiến độ khoán đất nông nghiệp, đất rừng, tổ chức tổ đánh bắt thủy sản, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và khai thác kinh tế, dần chuyển đổi thành đơn vị hỗ trợ sản xuất, quản lý vốn đầu tư và có kế hoạch hoàn trả cho ngân hàng.


   Bốn là, tăng cường phối hợp với chính quyền địa phương tại địa bàn, hoàn thiện cơ cấu tổ chức hoạt động và quan tâm bố trí nguồn nhân lực trong các đoàn kinh tế - quốc phòng. Xây dựng, phát triển các khu kinh tế - quốc phòng là để phát triển kinh tế - xã hội, ổn định sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân địa phương gắn với củng cố quốc phòng, an ninh trên địa bàn. Để hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu của từng dự án, các đoàn kinh tế - quốc phòng cần chủ động kết hợp chặt chẽ với địa phương nơi đứng chân nhằm hoàn thiện các thủ tục pháp lý cần thiết, như: hộ khẩu, hộ tịch, quản lý, thành lập khu vực hành chính, tham gia xây dựng hệ thống điện - đường - trường - trạm - chợ, các vấn đề dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng; vấn đề quy hoạch đất đai, giao đất, giao rừng, cơ chế huy động vốn, huy động lực lượng, sắp xếp bố trí lại dân cư. Mặt khác, sự phối hợp đó còn để tiến hành điều tra, khảo sát về đất đai, khí hậu, dân cư, huy động nguồn lực địa phương, xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ngành nghề, tạo môi trường thuận lợi cho quá trình phát triển. Cùng với đó, cần lựa chọn nguồn nhân lực, nhất là cán bộ quản lý, cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật vừa có kiến thức quân sự, vừa có kiến thức kinh tế, gắn bó với nhiệm vụ, với đơn vị; thường xuyên đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc; nghiên cứu, am hiểu phong tục, tập quán, tiếng dân tộc, thực hiện “trọng dân, gần dân, hiểu dân, vì dân, bám sát thực tiễn, cầu thị, học hỏi, nói đi đôi với làm”. Đồng thời, có chính sách đãi ngộ phù hợp để cán bộ, chiến sĩ, nhân viên các khu kinh tế - quốc phòng yên tâm, gắn bó lâu dài với vùng đất biên giới, biển, đảo. Nghiên cứu, áp dụng chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất cho các gia đình quân nhân, đội ngũ trí thức trẻ tình nguyện nếu có nguyện vọng ở lại sinh sống tại địa bàn.


   Tiếp tục xây dựng, phát huy vai trò của các khu kinh tế - quốc phòng là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm thực hiện mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng - an ninh trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo trong tình hình mới. Bởi vậy, cần có chủ trương, giải pháp phù hợp để phát huy vai trò các khu kinh tế này, đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.

SỨC KHỎE, TÍNH MẠNG CỦA NHÂN DÂN LÀ TRÊN HẾT, TRƯỚC HẾT

 



   Năm 2021, diễn biến đại dịch COVID-19 rất phức tạp trên toàn thế giới và Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Trong tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục kiên định mục tiêu “bảo vệ sức khỏe, tính mạng của nhân dân là trên hết, trước hết”, “không để ai bị bỏ lại phía sau”, kiên trì phương châm “chống dịch như chống giặc”, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân, thực thi những “cách đánh” độc đáo, sáng tạo, từng bước khắc chế “giặc COVID-19”… Tài “cầm lái” của Đảng, thêm một lần nữa được khẳng định.


     Nghị quyết ban hành ngay trong đêm


   Gần hai năm qua, thế giới bị sốc nặng bởi thảm họa y tế toàn cầu do COVID-19 gây ra. Đại dịch đã cướp đi sinh mệnh của hơn 4,7 triệu người và hàng trăm triệu người bị ảnh hưởng. Trong bối cảnh đó, quyền được sống, được bảo vệ sinh mạng càng trở nên cấp thiết, đúng như nhận xét của bà Michelle Bachelet, Cao ủy Nhân quyền Liên hiệp quốc (LHQ): “Không còn nghi ngờ gì nữa, vi-rút Corona là một phép thử đối với các nguyên tắc, giá trị và tính nhân văn”.


   Để phòng, chống dịch COVID-19, Việt Nam đề ra “mục tiêu kép”, vừa phòng, chống dịch, vừa phát triển kinh tế-xã hội, nhưng việc thực hiện “mục tiêu kép” lại luôn đặt việc bảo vệ sức khỏe, tính mạng của nhân dân là trên hết, trước hết. Bằng chứng là, năm 2020, trong khi các nước khác còn chần chừ, đong đếm lợi ích kinh tế với phòng, chống dịch bệnh, thì thời điểm đó trên cương vị là Thủ tướng Chính phủ, đồng chí Nguyễn Xuân Phúc đã tuyên bố rất dứt khoát: “Việt Nam chấp nhận hi sinh lợi ích kinh tế trước mắt để bảo vệ tốt nhất sức khỏe, tính mạng của người dân”. Tuyên bố trên đã thể hiện rõ bản chất vì người dân, vì con người của Nhà nước, chế độ ta. Từ đây, một loạt các chính sách được ban hành mà mục tiêu hướng tới là bảo đảm sức khỏe nhân dân. Điển hình là Việt Nam đã quyết định bổ sung COVID-19 vào danh mục các bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm. Theo đó, những người nhiễm bệnh sẽ được khám và điều trị miễn phí trong khi công dân nhiều quốc gia trên thế giới phải tự chi trả mọi chi phí điều trị COVID-19. 


   Từ tháng 3-2000, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã kêu gọi đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước và đồng bào Việt Nam ở nước ngoài cùng chung sức, hợp lực trong trận chiến chống dịch COVID-19. Nhờ có các biện pháp tổng lực, năm 2020, thế giới ghi nhận Việt Nam là quốc gia đi đầu trong phòng, chống dịch COVID-19 hiệu quả. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đánh giá: Năm 2020, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; sự lãnh đạo nhạy bén, đúng đắn của Đảng; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ; sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của cả hệ thống chính trị; sự đồng tình, hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài, chúng ta đã kịp thời khống chế, cơ bản kiểm soát, ngăn chặn được sự lây lan của đại dịch COVID-19 trong cộng đồng; hạn chế tối đa những thiệt hại, tổn thất do dịch bệnh gây ra, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho nhân dân; từng bước khôi phục sản xuất, kinh doanh, nỗ lực hoàn thành ở mức cao nhất các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của năm 2020 và cả giai đoạn 2016-2020.


   Cuối tháng 4-2021, biến chủng Delta xuất hiện khiến dịch COVID-19 lan mạnh, gây hậu quả nghiêm trọng, trong đó có Việt Nam. Ngày 29-7-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ra lời kêu gọi (lần thứ 2) và nhấn mạnh: “Hiện nay, tình hình đại dịch COVID-19 vẫn đang diễn biến rất phức tạp, tốc độ lây lan rất nhanh, gây tổn hại lớn về sức khỏe và tính mạng của người dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế - xã hội và mọi mặt của đời sống. Với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, bảo vệ sức khỏe, tính mạng của nhân dân là trên hết, trước hết”.


   Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tha thiết kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và đồng bào ta ở nước ngoài: “Chúng ta đã cố gắng càng cố gắng hơn nữa; đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa; đã quyết tâm càng quyết tâm cao hơn nữa; toàn dân tộc muôn người như một, đồng lòng cùng Đảng, Chính phủ, các cấp, các ngành tìm mọi cách quyết ngăn chặn, đẩy lùi bằng được, không để dịch lan rộng, bùng phát trong cộng đồng. Tôi yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, ban chỉ đạo phòng, chống dịch COVID-19 từ Trung ương tới cơ sở phải quyết liệt hơn nữa trong lãnh đạo, chỉ đạo; tập trung cao nhất công sức, thời gian, ưu tiên mọi nguồn lực; chủ động nắm chắc và dự báo, kiểm soát tốt tình hình; tuyệt đối không được lơ là, chủ quan, không để bị động, bất ngờ trong ứng phó với diễn biến mới của dịch bệnh; linh hoạt, sáng tạo tổ chức thực hiện có hiệu quả công việc hệ trọng này”.


   Trước đó, Nghị quyết số 30 của Quốc hội đã đề ra một loạt các giải pháp phòng, chống dịch COVID-19, trong đó đáng chú ý là cho phép Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định theo trình tự, thủ tục rút gọn trước khi thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19. Thực tế cho thấy, trong hơn một ngày nghiên cứu, vào đêm 6-8-2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp khẩn cho ý kiến thông qua và Chủ tịch Quốc hội đã ký ban hành Nghị quyết 268 để Thủ tướng Chính phủ kịp ký ban hành Nghị quyết số 86 về các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19. Nghị quyết đưa ra nguyên tắc và mục tiêu tối thượng là đặt tính mạng, sức khỏe của Nhân dân lên trên hết, trước hết, từng bước kiểm soát được tình hình dịch bệnh, sớm đưa cuộc sống trở lại trạng thái “bình thường mới”. Trong nghị quyết này, Chính phủ đề 6 giải pháp chiến lược: (1) Thực hiện việc cách ly, giãn cách xã hội nhanh nhất có thể, ở phạm vi nhỏ nhất có thể với các giải pháp linh hoạt, mềm dẻo; (2) Xét nghiệm thần tốc, nhanh hơn tốc độ lây lan của vi-rút để phát hiện F0, kịp thời phân loại, cách ly, theo dõi, điều trị phù hợp, hiệu quả; (3) Điều trị tích cực, kịp thời, từ sớm, từ xa, ngay tại cơ sở cho bệnh nhân COVID-19; (4) Thực hiện chiến lược vắc-xin căn cơ, an toàn, hiệu quả; (5) Tuyên truyền, vận động để nâng cao ý thức người dân, nhất là trong việc chủ động, tự giác thực hiện, chấp hành các biện pháp phòng, chống dịch cơ bản, lâu dài; (6) Bảo đảm an sinh xã hội kịp thời, đúng đối tượng.


     Dựa vào dân để chống dịch


   Từ chủ trương này, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đi kiểm tra, đốc thúc tình hình phòng, chống dịch. Thủ tướng đã quyết liệt phê bình những cá nhân, tập thể lơ là, thiếu trách nhiệm và sáng tạo. Ở những nơi nguy cơ dịch lây nhiễm nhanh, Thủ tướng đã kịp thời chỉ đạo các giải pháp tăng cường lực lượng và nguồn lực y tế để dập dịch. Tính đến thời điểm này, dịch COVID-19 ở TP, Hồ Chí Minh và một số địa phương phía Nam đã được khống chế. Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện ngày 23-8-2021 gửi các bộ, ngành, địa phương, người dân là “chiến sĩ”, là trung tâm phục vụ, là chủ thể phòng, chống dịch. Sự tham gia, chấp hành, tuân thủ quy định của người dân đóng vai trò quyết định thành công trong phòng, chống dịch; đây là trách nhiệm, là nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi người dân để bảo vệ sức khỏe cho chính mình, gia đình mình và cộng đồng. Chiến thắng dịch bệnh là chiến thắng của Nhân dân.


   Vừa qua, Viện nghiên cứu thị trường Latana đã thực hiện một cuộc thăm dò dư luận, đánh giá sự hài lòng của người dân với công tác phòng chống dịch COVID-19 ở 52 quốc gia và được nhiều trang báo của Đức đăng tải. Theo đó, có 96% số ý kiến công dân được hỏi hài lòng với công tác phòng, chống đại dịch COVID-19 của Chính phủ Việt Nam, trong khi tỷ lệ này các quốc gia còn lại thấp hơn rất nhiều.


   Kết quả công tác phòng, chống dịch COVID-19 ở Việt Nam đã cho kết quả tốt. Nhiều địa phương đã khống chế dịch rất kịp thời, như Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương... Một trong những bài học được Đảng ta rút ra: “Từ thực tiễn công tác phòng, chống dịch COVID-19, muốn thành công phải khơi dậy được tinh thần đoàn kết, nhân ái của nhân dân cả nước, cộng đồng doanh nghiệp, cùng chung tay hành động, bảo đảm an sinh xã hội, xây dựng và phát huy mạnh mẽ thế trận lòng dân, an ninh nhân dân, quốc phòng toàn dân và các giá trị văn hóa dân tộc ta”.


   Đảng ta cũng xác định phải: “Tập trung nâng cao năng lực, tận dụng thời cơ, chuyển hướng và tổ chức lại các hoạt động kinh tế; có giải pháp chính sách khắc phục tác động của dịch bệnh COVID-19, nhanh chóng phục hồi nền kinh tế; xây dựng các mô hình phát triển mới, tận dụng tốt các cơ hội thị trường và xu hướng chuyển dịch đầu tư, sản xuất trong khu vực, toàn cầu”.


   Bài học dựa vào dân vào cộng đồng để chống dịch là những cách mà có lẽ chỉ Việt Nam làm được. Khi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đang diễn ra, thông tin tỉnh Hải Dương, Quảng Ninh trở thành điểm nóng dịch COVID-19, khi đó trên cương vị Thủ tướng Chính phủ, đồng chí Nguyễn Xuân Phúc đã mở cuộc họp khẩn ngay tại địa điểm diễn ra đại hội với chỉ đạo: “Chúng ta phải công khai nhưng không được để nhân dân lo lắng hoang mang, bằng cách phổ biến kịp thời những biện pháp quyết liệt, cụ thể của Ban Chỉ đạo, của Chính phủ, của Bộ Y tế. Chúng ta cần phải kiên quyết hơn, dứt khoát, mạnh mẽ hơn trong phòng, chống dịch”.


   PGS, TS. Trần Đắc Phu, nguyên Cục trưởng Cục Y tế dự phòng khẳng định: “Sự khác biệt của Việt Nam với thế giới trong phòng, chống dịch COVID-19 chính là sự lãnh đạo tài tình của Đảng, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Nhờ sự vào cuộc nhanh chóng, kịp thời, thống nhất, chỉ đạo quyết liệt và xuyên suốt của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của các cấp ủy đảng với sự nỗ lực triển khai của chính quyền các cấp, chỉ đạo xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, Việt Nam đã từng bước chiến thắng trong cuộc chiến với “giặc”.


   Với Việt Nam, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển; mọi chủ trương, đường lối đều lấy người dân làm trung tâm, lấy việc đáp ứng ngày càng tốt hơn những nhu cầu chính đáng của nhân dân là mục tiêu. Tại Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng (3-2-1960), diễn văn nêu rõ: “Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hóa tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hằng ngày của nhân dân. Cho nên Đảng ta vĩ đại vì nó bao trùm cả nước, đồng thời vì nó gần gũi tận trong lòng của mỗi đồng bào ta”.


   Dịch bệnh đặt con người trước thử thách sinh tử, thì cách tốt nhất để bảo đảm cho người dân thụ hưởng đầy đủ các quyền con người là phải làm sao giữ cho xã hội an toàn trước dịch bệnh. Những giải pháp của Chính phủ, Quốc hội trong phòng, chống dịch COVID-19 thời gian qua đã chứng minh cho mục tiêu tối thượng của Đảng là luôn đặt sức khỏe, tính mạng người dân lên trên hết, trước hết. Đại dịch COVID-19 chính là bằng chứng sinh động thêm một lần nữa khẳng định sự ưu việt của Đảng Cộng sản Việt Nam./.

Thứ Tư, 24 tháng 11, 2021

VIỆT NAM LUÔN LÀ MỘT THÀNH VIÊN TÍCH CỰC, NĂNG ĐỘNG VÀ CÓ TRÁCH NHIỆM

 



   Tham gia đóng góp thúc đẩy hợp tác ASEM không chỉ giúp nâng cao vai trò, vị thế quốc tế của Việt Nam mà còn có ý nghĩa hết sức quan trọng góp phần thúc đẩy các lợi ích về an ninh và phát triển của đất nước


   Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Cam-pu-chia Samdech Akka Moha Sena Padei Techo Hun Sen (Xăm-đéc Ạ-kẹ Mô-ha Xê-na Pạ-đây Tê-chô Hun Xen) - Thủ tướng nước chủ nhà Hội nghị Cấp cao Á – Âu (ASEM) lần thứ 13, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính sẽ tham dự Hội nghị ASEM lần thứ 13 theo hình thức trực tuyến từ ngày 25 đến ngày 26 tháng 11 năm 2021.


   Với chủ đề “Củng cố Chủ nghĩa Đa phương vì Tăng trưởng chung”, Hội nghị Cấp cao ASEM 13 gồm 2 Phiên thảo luận toàn thể, 1 Phiên họp kín và tập trung vào các nội dung chính sau: Vai trò của ASEM trong thúc đẩy chủ nghĩa đa phương; COVID-19 và phục hồi kinh tế - xã hội; và Các vấn đề ASEM, khu vực và toàn cầu.


   Qua 25 năm từ khi tham gia sáng lập ASEM, Việt Nam luôn là một thành viên tích cực, năng động và có trách nhiệm, ghi những dấu mốc ý nghĩa trong chặng đường phát triển của ASEM. Tham gia đóng góp thúc đẩy hợp tác ASEM không chỉ giúp nâng cao vai trò, vị thế quốc tế của Việt Nam mà còn có ý nghĩa hết sức quan trọng góp phần thúc đẩy các lợi ích về an ninh và phát triển của đất nước.


   Đóng góp nổi bật nhất của Việt Nam bao gồm tổ chức thành công HNCC ASEM 5 (2004), cùng 5 HNBT trong các lĩnh vực kinh tế (2001), công nghệ - thông tin (2006), ngoại giao (2009), giáo dục (2009), lao động (2012), và triển khai nhiều sáng kiến trong các lĩnh vực chuyên ngành thuộc ưu tiên của ASEM.


   Việt Nam tham gia đề xuất, thúc đẩy 2 lần mở rộng thành viên ASEM (ASEM 5, 2004 và HNBT Ngoại giao ASEM lần thứ 9, 2009) và cùng các thành viên thông qua nhiều văn kiện và quyết định quan trọng mang tính định hướng trong tiến trình hợp tác ASEM như “Tuyên bố Hà Nội về Quan hệ Đối tác Kinh tế ASEM chặt chẽ hơn” và “Tuyên bố ASEM về Đối thoại giữa các nền văn hóa, văn minh”, “Khuyến nghị về cải tiến phương thức hoạt động ASEM” (2004). 


   Đến nay, Việt Nam được đánh giá là một trong những thành viên tích cực nhất của Diễn đàn, đề xuất 29 sáng kiến và đồng bảo trợ 31 sáng kiến về những lĩnh vực thiết thực với địa phương, doanh nghiệp và người dân, như văn hoá, y tế, giao thông vận tải, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, khoa học – công nghệ, du lịch, kinh tế, tăng trưởng xanh, an sinh xã hội, phát triển bao trùm, kinh tế số, nâng cao quyền năng phụ nữ… 


   Gần đây nhất, Việt Nam đề xuất và tổ chức thành công Đối thoại Chính sách cao cấp “Tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác Á – Âu trong một thế giới đang biến đổi” nhân dịp 25 năm thành lập Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) (tháng 6/2021, hình thức kết hợp trực tiếp và trực tuyến).


    Đối thoại là sáng kiến của Việt Nam nhằm kỷ niệm 25 năm thành lập ASEM (1996 - 2021), góp phần thúc đẩy trao đổi giữa các thành viên về định hướng và tầm nhìn hợp tác Á - Âu trong giai đoạn mới. Đối thoại là hoạt động hợp tác ASEM có quy mô lớn nhất từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát với sự tham dự, đóng góp tích cực của đại diện cao cấp nhiều nước và tổ chức quốc tế.


   Việt Nam là một trong những nước đi đầu khởi xướng và duy trì cơ chế hợp tác đầu tiên trong ASEM về quản lý nguồn nước là Đối thoại ASEM về phát triển bền vững, trong đó tập trung hợp tác tiểu vùng các nước ven sông Mekong - Danube, góp phần nâng hợp tác tiểu vùng Mekong lên tầm liên khu vực.


   Với bước chuyển tư duy đối ngoại đa phương sang “chủ động đóng góp, xây dựng và định hình”, Việt Nam đã đưa ra nhiều đề xuất giải quyết những vấn đề then chốt của ASEM như mở rộng thành viên, củng cố cơ chế, nâng cao hiệu quả hoạt động, thúc đẩy các nhóm hợp tác chuyên ngành...


   Trên nền tảng hợp tác ASEM, quan hệ song phương giữa Việt Nam và các thành viên ASEM ngày càng được đẩy mạnh và nâng tầm. Các thành viên ASEM hiện chiếm 23 trong số 30 đối tác chiến lược và đối tác toàn diện của Việt Nam; đóng góp khoảng 70% đầu tư trực tiếp nước ngoài, 70% giá trị thương mại quốc tế và 80% lượng khách du lịch quốc tế của Việt Nam; là đối tác của 15 trong 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký hoặc đang đàm phán. Hợp tác song phương giữa Việt Nam với Liên bang Nga, Liên minh châu Âu, các đối tác và bạn bè truyền thống châu Âu tiếp tục phát triển nhanh chóng, ngày càng đi vào chiều sâu, toàn diện, trên tinh thần đối tác tin cậy, hữu nghị, cùng chia sẻ tầm nhìn lâu dài, cùng đóng góp cho hòa bình, hợp tác và phát triển ở hai khu vực và trên thế giới.


   Các FTA giữa Việt Nam với Liên minh kinh tế Á - Âu (EAEU) có hiệu lực tháng 10/2016 và FTA Việt Nam - EU có hiệu lực tháng 8/2020 đã đánh dấu những mốc phát triển mới trong quan hệ giữa Việt Nam với các đối tác châu Âu, đồng thời là minh chứng sinh động khẳng định quyết tâm của các nước Á - Âu trong đẩy mạnh kết nối, liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu.


   Trong giai đoạn hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả, đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, với những tầm nhìn và khát vọng phát triển mới, tăng cường quan hệ đối tác Á - Âu, trong đó có hợp tác ASEM, càng có ý nghĩa quan trọng đối với hòa bình, an ninh, ổn định, tăng trưởng kinh tế và nâng cao vị thế quốc tế của đất nước.


   Là khuôn khổ đối tác toàn diện kết nối Á - Âu, ASEM đã phát huy vai trò không thể thiếu trong việc tăng cường gắn kết, mở rộng không gian hợp tác, phát triển và liên kết giữa các quốc gia, doanh nghiệp và người dân hai châu lục. Trước những chuyển biến nhanh chóng của tình hình thế giới, sự phát triển mạnh của những xu thế mới, nhất là sự bùng nổ khoa học công nghệ, với bề dày hợp tác trải qua một phần tư thế kỷ, sức hấp dẫn, vị thế và tiềm năng hợp tác của ASEM ngày càng gia tăng.


   Cùng với các thành tựu phát triển và đối ngoại, việc Việt Nam tiếp tục tham gia và đóng góp tích cực tại Diễn đàn ASEM là bước triển khai quan trọng chủ trương đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, góp phần tranh thủ sự ủng hộ của các thành viên, đề cao vị thế quốc tế của Việt Nam./.

TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG: VĂN HÓA CÒN LÀ DÂN TỘC CÒN

 



Bài phát biểu tâm huyết của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng liên tục nhận được những tràng vỗ tay của đại biểu tham dự tại Hội trường Diên Hồng, Nhà Quốc hội. 


Các đại biểu cảm nhận rõ tình cảm đặc biệt của Tổng bí thư dành cho văn hóa, tình yêu của Tổng bí thư đối với văn nghệ sĩ, với văn nghệ qua những bài thơ dài ông đọc như Chân quê của Nguyễn Bính, Việt Bắc của Tố Hữu… 


Khẳng định ý nghĩa đặc biệt của Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng bí thư nhấn mạnh rất vui mừng, vinh dự và hào hứng được dự hội nghị này. 


Ghi nhận vai trò quan trọng của văn hóa, Tổng bí thư nói lâu nay văn hóa chưa được một bộ phận cán bộ và người dân nhận thức đầy đủ vai trò “soi đường cho quốc dân đi”. 


Mượn lời tiền nhân: “Văn hóa là bản sắc của dân tộc, văn hóa còn thì dân tộc còn, văn hóa mất thì dân tộc mất”, Tổng bí thư nhấn mạnh sự đồng tình với quan điểm “văn hóa còn thì dân tộc còn”. Văn hóa làm nên hồn cốt của dân tộc nên mất văn hóa là mất dân tộc. 


Điều này được Tổng bí thư khẳng định nhiều lần trong suốt bài phát biểu. 


Tổng bí thư dẫn ra nhiều khái niệm văn hóa mang tính học thuật của các nhà nghiên cứu và cũng chia sẻ quan niệm giản dị của mình về văn hóa với hội nghị. Theo đó, văn hóa rất gần gũi với đời sống, khi người dân được sống giữa tình thương và lòng nhân ái, lẽ công bằng… ấy chính là văn hóa. 


Ngược lại, những xấu xa, bỉ ổi chính là vô văn hóa, phi văn hóa, phản văn hóa. 


Tổng bí thư lược lại lịch sử để cho thấy quan điểm xuyên suốt của Đảng về văn hóa ngay từ ngày đầu thành lập tới nay chính là văn hóa phải được đặt ngang hàng chính trị, kinh tế, xã hội, “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. 


Không chỉ quan tâm phát triển văn hóa, Đảng ta đặc biệt chú trọng phát triển văn hóa quần chúng, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tổng bí thư khẳng định đây chính là điểm ưu việt của Đảng ta.


PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA, SỨC MẠNH, TINH THẦN CỐNG HIẾN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM


Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hóa của dân tộc, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ:


1. Khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.


2. Xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo...


3. Phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa: bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hóa mới. 


Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh, gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa, phản văn hóa; bảo vệ những giá trị chân - thiện - mỹ. Nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân; xây dựng đời sống văn hóa vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền của đất nước.


4. Phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hóa là nhân dân; tôn trọng và bảo vệ sự biểu đạt đa dạng của văn hóa, của người dân, các dân tộc, các vùng, miền; phát triển các phong trào văn hóa sâu rộng, thực chất; cải thiện điều kiện, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, bảo đảm sự công bằng. 


Đề cao, phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của những người làm công tác văn hóa.


5. Chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa, về đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam. 


Xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý; phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 


Nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng; hiệu quả quản lý của Nhà nước; sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong sự nghiệp phát triển văn hóa.


6. Xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh.


VĂN HÓA PHẢI ĐƯỢC ĐẶT NGANG HÀNG VỚI KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI


Chỉ rõ những giải pháp trong thời gian tới, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu, trước hết là tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa để đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. 


Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong xây dựng, phát triển văn hóa từ trung ương đến cơ sở. 


Cấp ủy đảng và chính quyền các cấp phải nhận thức sâu sắc và quán triệt đầy đủ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về văn hóa và trên cơ sở đó xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện, huy động tối đa các nguồn lực để phát triển văn hóa. 


Khắc phục tư tưởng "duy kinh tế", chỉ tập trung cho kinh tế mà ít quan tâm đến văn hóa. Phải quán triệt nghiêm túc quan điểm "văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội".


Đối với công tác quản lý nhà nước, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng lưu ý, cần sớm khắc phục tình trạng chậm thể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng thành luật pháp và các chính sách cụ thể, khả thi về phát triển văn hóa, xây dựng con người. Đẩy mạnh công tác sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý văn hóa từ trung ương đến cơ sở. 


Xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách phù hợp, chú ý đến tính đặc thù của hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Nâng mức đầu tư một cách hợp lý từ nguồn ngân sách nhà nước, đồng thời khơi thông các nguồn lực xã hội, nguồn lực trong nước và nước ngoài cho phát triển văn hóa. 


Trong quá trình đa dạng hóa các hoạt động văn hóa, Nhà nước cần chú trọng đầu tư vào dòng chủ lưu của văn hóa cách mạng để làm nòng cốt và dẫn dắt, truyền cảm hứng chủ đạo trong việc bồi dưỡng tư tưởng, tâm hồn, tình cảm trong sáng, lành mạnh, góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội.


Đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hóa phải được xây dựng, bồi dưỡng tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ phát triển văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới; sớm khắc phục tình trạng chắp vá, tùy tiện trong bố trí cán bộ làm công tác văn hóa, ở cả trung ương và địa phương. Đặc biệt chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ làm công tác văn hóa, văn học, nghệ thuật. 


Đổi mới chính sách đãi ngộ, sử dụng đối với đội ngũ văn nghệ sĩ và những người làm công tác văn hóa. Tôn vinh tài năng và cống hiến của họ cho sự phát triển văn hóa nước nhà. 


Bên cạnh việc tập trung nâng cao đời sống văn hóa ở cơ sở, cần phải chú trọng xây dựng và phát triển văn hóa đỉnh cao, phấn đấu có nhiều tài năng lớn ở các loại hình văn hóa, nghệ thuật, có những tác phẩm tầm cỡ, phản ánh được sâu sắc hiện thực đổi mới vĩ đại của đất nước, có ý nghĩa tích cực trong việc xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam hiện nay.


Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, cần quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, của đồng bào các dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại. Phát triển "sức mạnh mềm" của văn hóa Việt Nam, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia trong thời gian tới.


Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, chú trọng xây dựng văn hóa ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục của gia đình và xã hội; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo lý xã hội. 


Xây dựng các quy tắc ứng xử văn minh trong các cơ quan công quyền, trong cộng đồng, nhất là trong không gian mạng, trong giới văn nghệ sĩ. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực; chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "quét sạch chủ nghĩa cá nhân", nguồn gốc của mọi sự tham nhũng, tiêu cực, hư hỏng ngay trong các ngành văn hóa, các cơ quan làm công tác văn hóa. 


Chú trọng thực hiện quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên. Thực hiện nghiêm túc nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 các khóa XI, XII và đặc biệt là các kết luận, quyết định của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII của Đảng mới đây về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị.


Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng mong muốn, sau hội nghị này, công tác văn hóa sẽ có bước chuyển biến, tiến bộ mới, mạnh mẽ hơn nữa, hiệu quả cao hơn nữa, ghi một dấu mốc mới trên con đường chấn hưng, phát triển nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới.


“Với một đất nước, một dân tộc trọng văn hiến, trọng hiền tài, giàu truyền thống yêu nước và cách mạng; nhân dân đoàn kết, cần cù, sáng tạo; đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ tâm huyết, tài năng, có trách nhiệm cao với nhân dân, với Đảng, với Tổ quốc và tương lai của dân tộc; cùng với sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của cả hệ thống chính trị, nhất định chúng ta sẽ khắc phục được mọi khó khăn, vượt qua mọi thách thức để chấn hưng và xây dựng thành công một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp tục làm vẻ vang thêm cho dân tộc, cho giống nòi, tạo thành sức mạnh vô song để xây dựng Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, đất nước ta ngày càng phồn vinh, xứng đáng với truyền thống ngàn năm văn hiến và anh hùng của một dân tộc anh hùng, sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới” - Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng bày tỏ tin tưởng

Thứ Ba, 23 tháng 11, 2021

KIỆN TOÀN NHÂN SỰ BAN CHỈ ĐẠO TRUNG ƯƠNG VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC

 


   Bộ Chính trị quyết định phân công bà Trương Thị Mai giữ chức Phó trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; ông Lê Minh Hưng giữ chức Ủy viên Ban Chỉ đạo.


   Thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quyết định về việc phân công kiêm giữ chức Phó Trưởng ban và Ủy viên Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.


   Tại Quyết định số 378-QĐNS/TW, Bộ Chính trị quyết định phân công bà Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Ủy viên Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực kiêm giữ chức Phó trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.


   Bà Trương Thị Mai sinh năm 1958, quê quán Quảng Bình. Bà là Ủy viên Bộ Chính trị khóa XII, XIII, Bí thư Trung ương Đảng khóa XII, XIII, Đại biểu Quốc hội liên tục 5 khóa, từ khóa X - XV.


   Trước khi làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương, bà Trương Thị Mai đã trải qua các chức vụ như: Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội khóa XI; Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội khóa XII, XIII; Trưởng ban Dân vận Trung ương.


   Tại Quyết định số 379-QĐNS/TW, Bộ Chính trị quyết định phân công ông Lê Minh Hưng, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, kiêm giữ chức Ủy viên Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.


   Ông Lê Minh Hưng sinh năm 1970, quê quán Hà Tĩnh. Ông là Ủy viên Trung ương Đảng khóa XII, XIII, Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII; đại biểu Quốc hội khóa XV.


   Trước khi giữ chức Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, ông Lê Minh Hưng từng giữ các chức vụ như: Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam); Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.


   Sau khi kiện toàn, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực gồm 18 thành viên do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng ban; ông Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương là Phó Trưởng ban Thường trực và 5 Phó Trưởng ban khác./.

TẠO ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI TỐI ĐA ĐỂ CÁC ĐỊA PHƯƠNG CỦA VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN HỢP TÁC

 



   Chiều 23/11 (giờ địa phương), tiếp tục chương trình chuyến thăm chính thức Nhật Bản, Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị hợp tác địa phương Việt Nam - Nhật Bản do chính quyền tỉnh Tochigi, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản phối hợp tổ chức.


   Ông Fukuda Tomikazu, Thống đốc tỉnh Tochigi cho biết, tỉnh có thế mạnh về kinh tế với thu nhập bình quân đầu người đứng thứ ba trong các địa phương tại Nhật Bản, ngành công nghiệp chế tạo chiếm vị trí chủ lực trong nền kinh tế của địa phương. Tỉnh Tochigi luôn mong muốn tăng cường hợp tác nhiều mặt với Việt Nam; mong muốn hai bên sớm kiểm soát đại dịch để sớm nối lại giao thương, giao lưu nhân dân.


   Tại hội nghị, đại diện doanh nghiệp của tỉnh Tochighi đã giới thiệu về thế mạnh trong các lĩnh vực như nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến chế tạo, điện tử... Đây đều là những lĩnh vực mà Việt Nam đặc biệt ưu tiên thu hút đầu tư trong thời gian tới và doanh nghiệp hai bên sẽ còn rất nhiều dư địa để hợp tác phát triển. Các doanh nghiệp đánh giá cao môi trường đầu tư, kinh doanh ngày càng được cải thiện của Việt Nam.


   Phát biểu ý kiến tại hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính bày tỏ ấn tượng về sự phát triển trình độ cao của tỉnh Tochigi theo hướng hiện đại, bền vững, chú trọng phát triển hài hòa giữa kinh tế, xã hội và môi trường, cân bằng giữa các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, khoa học công nghệ và du lịch. Quan hệ giữa địa phương hai nước là một trụ cột hợp tác quan trọng, đóng góp hiệu quả trong hợp tác giữa hai nước.


   Hội nghị hợp tác địa phương hôm nay có sự tham gia của đại diện 10 tỉnh, thành phố tiêu biểu đến từ 3 miền bắc, trung, nam của Việt Nam, cho thấy tiềm năng hợp tác giữa tỉnh Tochigi và các địa phương của Việt Nam còn rất lớn. Hiện đã có 22 doanh nghiệp của Tochigi đang đầu tư tại Việt Nam, cộng đồng người Việt Nam tại tỉnh hiện là cộng đồng người nước ngoài lớn nhất tại tỉnh Tochigi với 8.000 người. Thống đốc tỉnh Tochigi đã nhiều lần dẫn đầu các đoàn đại biểu tới Việt Nam thúc đẩy xúc tiến đầu tư, thương mại giữa các địa phương của hai bên.


   Thủ tướng nêu rõ, các doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản đang đứng trước cơ hội hợp tác lớn với sự phát triển rất tốt đẹp của quan hệ Việt Nam - Nhật Bản. Nhật Bản là nước cung cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam (khoảng 27 tỷ USD), đối tác lớn thứ hai về vốn FDI (lũy kế đạt 64 tỷ USD), đối tác thứ ba về khách du lịch (khách du lịch Nhật tới Việt Nam đạt gần 1 triệu lượt khách trong năm 2019), đối tác thương mại lớn thứ tư (kim ngạch hai chiều đạt khoảng 40 tỷ USD/năm).


   Thủ tướng nhấn mạnh các lợi thế của Việt Nam trong thu hút đầu tư như sự ổn định chính trị; việc triển khai mạnh mẽ các khâu đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển hạ tầng; con người Việt Nam càng trong khó khăn lại càng đoàn kết, thống nhất, năng động, sáng tạo để vượt qua mọi thách thức, đồng thời luôn thân thiện, mến khách.


   Thủ tướng cũng đánh giá cao các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư lâu dài, luôn chia sẻ, đồng hành với Việt Nam trong những thời khắc khó khăn do dịch bệnh, thiên tai, bão lũ, những biến động kinh tế toàn cầu…


   Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định, Chính phủ Việt Nam luôn thấu hiểu, hết sức chia sẻ và có những giải pháp để cùng các doanh nghiệp giải quyết những khó khăn, thách thức, trong đó có những khó khăn nhất thời do đợt bùng phát dịch Covid-19 vừa qua.


   Mong muốn trong thời gian tới tỉnh Tochigi tiếp tục thiết lập quan hệ, thúc đẩy hợp tác với nhiều địa phương của Việt Nam, Thủ tướng khẳng định Chính phủ Việt Nam rất coi trọng và sẽ tạo điều kiện thuận lợi tối đa để tỉnh tăng cường hợp tác với các địa phương của Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực đầu tư, thương mại, lao động, giao lưu nhân dân, du lịch…


   Chính phủ Việt Nam cam kết sẽ luôn đồng hành và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các các doanh nghiệp tỉnh Tochigi nói riêng và Nhật Bản nói chung tiến hành đầu tư thành công, bền vững, lâu dài ở Việt Nam, nhất là trong các lĩnh vực như chuyển đổi số, phát triển hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững, ứng phó biến đổi khí hậu…


   “Mong các bạn tới Việt Nam để tận mắt chứng kiến những sự thật mà tôi vừa nói. Quan trọng nhất là chúng ta có niềm tin, sự hiểu biết và sự tôn trọng lẫn nhau để hợp tác trên tinh thần lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ”, Thủ tướng phát biểu với lãnh đạo chính quyền và cộng đồng doanh nghiệp địa phương./.