Con người không thể mười phân vẹn mười. Thế giới vẫn tồn tại cái ác, cái xấu. Nhưng không phải vì thế mà ta sợ hãi, bài trừ hay trốn tránh và phủ nhận hoàn toàn những điều tốt đẹp mà hơn thế chúng ta cần cải tạo, sửa chữa những cái chưa được và khuyến khích hướng đến những điều tốt đẹp hơn. Đó mới là đấu tranh.
Thiết nghĩ đây cũng là mục đích của tôn giáo và nghệ thuật chân chính.
P/s: Lấy chuyện phim kể chuyện đời
NHÂN CHI SƠ, TÍNH BỔN GÌ?
(Nguồn: Page 35mm.vn)
Đó là cảm giác cực kì khó chịu, mỗi khi bạn đọc được một tin tức về cái ác của con người. Đặc biệt khi cái ác ấy nhắm vào những đứa trẻ. “Chỉ có hai sinh vật trên đời biết yêu thương thuần khiết, là chó và trẻ sơ sinh,” nam diễn viên Johnny Depp từng nói. Hôm nay, không chỉ một mà nhiều cái ác đồng loạt nghiền nát tình yêu ấy.
Làm sao họ có thể làm điều đó? Họ có nhân tính hay không? Họ đáng chịu trừng phạt như thế nào?... là những câu hỏi được thốt lên. Phẫn nộ là cảm xúc chung. Dù phẫn nộ chưa bao giờ là cách giải quyết vấn đề, nhưng lần này, đó là minh chứng của lương tri. Nhưng từ sự phẫn nộ không nên dẫn đến bạo lực hay báo thù, mà nên là câu trả lời cho những câu hỏi. Và trên nữa, là các giải pháp.
Nhưng trước hết, phải là câu trả lời, cho câu hỏi cơ bản nhất: Bản chất của con người là gì?
Câu hỏi này từng được nêu lên trước đây, trong một dịp chiếu bộ phim Spring, Summer, Fall, Winter... and Spring (2003) của đạo diễn Kim Ki-duk. Một phim lấy các triết lí tôn giáo, cụ thể là Phật giáo, để lí giải các hiện tượng và sự vô thường của cuộc sống. Cảnh phim gây tranh cãi là một đứa bé ban đầu giết chết các sinh vật xung quanh và tỏ ra vui thú. Sau đó, khi nhận ra sự quí giá của sinh mệnh, nó bật khóc. Một khán giả đặt ra câu hỏi: “Vậy nhân chi sơ, tính bổn thiện hay nhân chi sơ, tính bổn ác?”
Rõ ràng trong phim, thằng bé trước hết giết chóc một cách tự nhiên, sau đó mới được cảm hóa bằng giáo dục. Nếu nhớ lại vài kí ức tuổi thơ, nhất là các cậu trai, chúng ta sẽ thấy sự tương đồng. Những đứa trẻ vẫn thường thích thú được bắt và hành hạ chuồn chuồn, bọ hung, tắc kè… trước khi giết chết chúng. Như vậy, không phải là tính bổn ác hay sao?
Một người bạn của tôi tin điều đó, sau nhiều tháng năm quan sát. Do đó, anh không còn quan tâm đến thế giới ngoài kia. Nếu con người bản tính tự nhiên là ác, thì tại sao ta còn phải cố gắng? Lịch sử đã chứng minh biết bao nhiêu lần rằng hòa bình chỉ là những quãng nghỉ ngắn ngủi của chiến tranh, chứ không phải ngược lại. Con người đã luôn nỗ lực để sử dụng hết tiềm năng các loại vũ khí của mình. Các tội ác diệt chủng như của Đức Quốc Xã và Pol Pot khủng khiếp đến nỗi nhiều người không dám tin là có thật. Làm sao những điều đó có thể xảy ra, nếu bản chất con người là tính thiện?
Và khi vũ khí hạt nhân đã xuất hiện, có phải tất cả chúng ta chỉ đang làm một điều là chờ đến ngày tận thế?
Cái ác không có giới hạn và biên. Về bản chất, giết cả nhân loại hay giết một đứa trẻ có lẽ không khác gì nhau. Nó đều xuất phát từ một thứ gì đó trong nếp não, trong mã gien, đã tồn tại ngay từ khi con người xuất hiện. Nó là một phần chưa thể dứt bỏ, có thể không thể dứt bỏ, trong quá trình tiến hóa. Cuộc chiến lớn nhất của con người hàng ngàn năm qua, có lẽ không phải là thế chiến I hay II, mà là giữa “ánh sáng và bóng tối”, như lời thám tử Cohle Rust trong True Detective. Cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác của nhân loại, và trong mỗi chúng ta.
Về phần mình, tôi tin rằng bạn tôi nói đúng. Cái ác là bản chất, hoặc chính xác hơn, có trước cái thiện. Trong buổi chiếu phim ấy, tôi đã nghĩ khác, rằng không có ác, cũng không có thiện. Đứa bé không giết các con vật vì nó ác, mà vì sự tò mò. Ác là một khái niệm sinh ra bởi đạo đức của con người. Thiện cũng thế. Điều này cũng phù hợp với triết lý đạo Phật, tất cả là hư không, không có không cũng không có có.
Tuy nhiên, càng về sau này, tôi càng tin rằng nhân chi sơ, tính bổn ác. Trong đó ác là một từ trung dung hơn, nếu nhìn ở khía cạnh sinh vật. Những cuộc săn đẫm máu, những cuộc chiến bộ lạc, hàng ngàn lần chém giết và bị chém giết của tổ tiên vẫn còn in hằn trong bộ não ta. Nó giống như lối ví von về một con thú vẫn ẩn nấp dưới lốt người, chỉ chờ cơ hội được thoát ra, với hàm răng sắc và móng vuốt nhọn. Nó sẽ làm những điều mà chính lốt người của nó từng khinh bỉ.
Nhưng có phải vì thế mà chúng ta đầu hàng cái ác? Tôi nghĩ là không.
Để chống lại cái ác, loài người cũng đã sản sinh ra rất nhiều vũ khí. Đó là đạo đức, pháp luật và cả tôn giáo. Đó là các thiết chế và hình phạt. Đó là giáo dục và cải tạo. Đó là các chính sách an sinh và quản trị. Và ở một vị trí không hề kém cạnh, và trong những trường hợp cụ thể sẽ đóng vai trò quyết định, là nghệ thuật. Nghệ thuật hướng con người đến chân, thiện, mỹ bằng cách tác động vào tất cả các giác quan và tâm hồn. Nghệ thuật nuôi dưỡng một sự trân quí với vạn vật và sinh linh. Nghệ thuật đưa con người vào một trạng thái cao quí hơn, mà ở đó, con người chạm đến được với tình yêu thuần khiết.
Nhờ đó, chúng ta có những khoảnh khắc như trong bộ phim The Pianist (2002) miêu tả. Một trong những trường đoạn cho thấy rõ nhất những ranh giới, khác biệt, thù hằn đã được xóa nhòa bởi nghệ thuật như thế nào. Tôi nghĩ rằng một dân tộc mà càng nhiều người xem và cảm được những tác phẩm như The Pianist, cái thiện càng được nhân rộng và cái ác sẽ bị lấn át. Nhưng để làm được điều đó là cả một quá trình dài để nâng cao dân trí, giáo dục kĩ càng, để trang bị cho mỗi người nhận thức đúng đắn và nền tảng vững vàng. Điều mà chúng ta vẫn chưa làm được, nhưng phải làm được.
Giống như vua hề Charlie Chaplin đã nói trong bài diễn thuyết ở cuối bộ phim The Great Dictators: “Đừng thất vọng!” Sống vốn dĩ đã là một cuộc đấu tranh. Từng là đấu tranh để sinh tồn, và giờ đây, khi cơm ăn áo mặc đã trở thành tiêu chuẩn cơ bản, chúng ta đấu tranh cho sự phát triển, biến thế giới thành một nơi tốt đẹp hơn. Sự tiến hóa có thể đã dừng lại, hoặc chậm lại, ở mặt sinh học, khi con người ổn định về môi trường sống, nhưng vẫn sẽ tiếp diễn trong tâm trí chúng ta. Mỗi một người tốt là một bước tiến, mỗi một kẻ ác là sự thụt lùi. Giống như lí thuyết về hiệu ứng cánh bướm, lựa chọn của mỗi chúng ta có thể dẫn đến việc thế giới này tiếp tục tồn tại hay bị hủy diệt.
Những lời này giống như tự nhắc nhở, hơn là khuyên nhủ hay thuyết phục người khác. Trong một ngày mà những tin tức trở nên quá nặng nề. Một người thầy từng nói với tôi về đất nước hạnh phúc nhất thế giới Bhutan. “Đó là vì họ không dùng Internet hay Facebook,” thầy nói. Họ sẽ tránh được những cảm giác khó chịu này. Nhưng như một câu thoại trong Memento “Thế giới này không biến mất dù ta nhắm mắt lại”. Tôi tin rằng, có những lúc ta không nên nhắm mắt.
Tôi chợt nhớ đến một mẩu chuyện về Roger Ebert, nhà bình luận phim tôi yêu mến, về cuộc tranh cãi với đạo diễn của phim Chaos (2005) là David DeFalco. Phim kể về hai nữ sinh viên đến một ngôi làng và bị kẻ sát nhân hàng loạt giết hại. Roger đã cho phim này 0 trên 4 sao, vì các cảnh bạo lực khủng khiếp mà David cho là “chân thật”. Trong bài phản pháo, vị đạo diễn này viết rằng: “Chúng tôi đã cố mang đến cho ngài và công chúng thứ gì đó chân thật. Những con quỉ có thật và không thể bị làm ngơ, tô vẽ, hay khai thác. Nó cần được thể hiện đúng như bản chất, đó là lí do vì sao chúng ta cần bộ phim này.”
Roger Ebert trả lời như sau, trong một đoạn văn tôi nghĩ là thuộc hàng hay nhất của bình luận phim:
“Động vật không hề biết chúng sẽ chết, vì thế không đòi hỏi bất kì cách thức nào để đối mặt với sự thật không thể khác ấy. Là con người, chúng ta biết mình sẽ chết, và được trang bị sự an ủi bằng nghệ thuật, truyền thuyết, hi vọng, khoa học, tôn giáo, triết học, và thậm chí sự phủ nhận, cả phim ảnh, để giúp ta điều hòa với sự thật tối thượng ấy.
Điều tôi chống lại với hầu hết mọi thứ trong Chaos không phải là bạo dâm, bạo lực, các màn tra tấn, thuyết hư vô, mà là sự thiếu vắng điều thay thế cho chúng. Nếu thế giới thật sự là quỉ dữ như ngài nghĩ, vậy thì ta cần đến sức mạnh cứu chuộc từ nghệ sĩ, thi sĩ, triết gia, và các nhà thần học hơn bao giờ hết.
Câu trả lời của ngài, rằng thế giới là quỉ dữ và vì thế trách nhiệm của ngài là phản chiếu nó, không phải là câu trả lời nào cả, mà là sự đầu hàng.”
Và bạn, bạn có lựa chọn đầu hàng hay không?
Tìm kiếm
Thứ Hai, 27 tháng 11, 2017
Thứ Tư, 22 tháng 11, 2017
THÔNG NÃO VỀ "NỢ CÔNG"!!!
Nguồn: fb Huyền Kate
Huyền Kate
Ê ê rận, đồ thần kinh! Venezuela nó vỡ nợ thì kệ tía nó, sao cứ réo Việt Nam tụi tui quài zạ!!! 🙄
Nước tư bản Hi Lạp sắp vỡ nợ chắc cũng sẽ tru tréo là tại Cộng Sản ha! 🤔
Cứ cấy cho dân hai chữ nợ công cao và sắp vỡ nợ để kích động hoài, bực rồi nha! 😡
- Thế nào là nợ công cao? 60% (Việt Nam) là cao hay 300% (Nhật Bản) là cao? Thật ra khái niệm cao nó nằm ở vế thứ 2 vỡ nợ, hay nói cách khác là khả năng trả nợ của một quốc gia. Nếu một quốc gia không có khả năng trả nợ thì dù bạn vay có 10% bạn cũng sẽ bị vỡ nợ đúng không? Cho nên khái niệm cao chỉ là tương đối.
- Việt Nam có khả năng trả nợ không? Đầu tiên bạn phải chia khoản nợ của bạn thành 2 phần. Nợ chủ nợ trong nước và nợ chủ nợ nước ngoài. Nợ trong nước của Việt Nam khoảng 50% tổng nợ. Tức là 60 tỉ USD. Nợ nước ngoài là 60 tỉ USD còn lại, tập trung vào 3 đối tác chính là ADB, WB và Nhật Bản.
Khi nói về khả năng trả nợ thì điều đầu tiên cần nói là khả năng đàm phán giãn nợ.
50% nợ trong nước chủ yếu là do các ngân hàng trong nước nắm trái phiếu chính phủ. Mà ngân hàng trong nước thì có 4 ngân hàng lớn nhất thì đều nằm trong tay chính phủ, ngân hàng do nhà nước nắm chi phối chiếm 60% ~ 70% thị phần tài chính của Việt Nam. Nói cách khác, chính phủ chi phối hoàn toàn hoạt động của nền tài chính và ngân hàng của Việt Nam. Vậy bạn tin với khoản nợ trong nước ai mới là kèo trên trong đàm phán?
50% còn lại, thì Nhật Bản chiếm 35%, đối tác này có khả năng đàm phán cao nhất do Việt Nam có quan hệ chính trị rất tốt với Nhật Bản. Khó nhất là 2 đối tác WB và ADB, chiếm 43% (25 tỉ USD) nợ của Việt Nam. Nhưng may sao Nhật Bản cũng lại là cổ đông lớn nhất của ADB. Vậy nếu trường hợp các đối tác này ép Việt Nam trả nợ thì sao?
+ Lợi nhuận của Viettel là 2 tỉ USD
+ Lợi nhuận của Mobifone là 500 triệu USD
+ Lợi nhuận của Petrolimex 800 triệu USD
+ Lợi nhuận của Vinamilk là 500 triệu USD
+ Còn một loạt tập đoàn nhà nước khác như Vietnam Airline, Vietcombank, Viettinbank, Arigbank, BIDV, Tập đoàn khoáng sản, Tập đoàn dệt may, Sabeco, ....
Chỉ thuần túy lấy lợi nhuận hàng năm của các tập đoàn nhà nước thôi bạn có thể thấy nó hơn cả chục tỉ USD rồi, chưa kể dự trữ ngoại hối là 46 tỉ USD nữa, bạn nghĩ Việt Nam đủ khả năng trả khoản nợ 25 tỉ USD nếu WB và ADB đòi ngay trong 1 năm không? Huống chi giờ là đòi nhiều năm! 25 tỉ USD thì bỏ bèng gì, 120 tỉ USD muốn vẫn có khả năng trả được liền (dù cái giá là không nhỏ).
Vấn đề của Việt Nam không phải là vỡ nợ mà là vỡ trần nợ công do chúng ta tự đặt ra để đảm bảo hiệu quả chi tiêu và an toàn tài chính lâu dài. Còn khả năng Việt Nam vỡ nợ trong tình hình hiện tại thì gần như bằng 0 nhá!
👉 Venezuela có phải là một nước Xã hội chủ nghĩa hay Cộng Sản không?
KHÔNG!!! Venezuela không phải là một nhà nước Xã hội chủ nghĩa theo nghĩa của việc chính phủ và hiến pháp của nó có chính thức ràng buộc để xây dựng Xã hội chủ nghĩa hay không (đây là những gì một “nhà nước Xã hội chủ nghĩa” phải là, theo nghĩa của Chủ nghĩa Cộng sản Mác/Lênin). Venezuela là một nước Cộng hoà liên bang nghị viện, cũng đa nguyên đa đảng đối lập như kiểu Mỹ. Chỉ là ở vị trí cao nhất, một đảng Xã hội chủ nghĩa, Đảng Xã Hội Chủ Nghĩa Thống Nhất của Venezuela, đã chiếm đa số ghế trong Quốc hội các năm 2000-2015 và hai vị Tổng thống thắng áp đảo của nước này thuộc về đảng này mà thôi!
👉 Venezuela có nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa không?
Câu trả lời cho điều này rõ ràng là KHÔNG!!! Năng động tích lũy vốn để thúc đẩy hoạt động kinh tế mà tìm kiếm lợi nhuận, hầu hết các doanh nghiệp được tư nhân hoá, mối quan hệ mức lương lao động vẫn được đặt ra và thậm chí cơ bản hơn... Venezuela vẫn hoạt động trong hệ thống thị trường Tư bản chủ nghĩa toàn cầu. Chính phủ không can thiệp tới quá trình tích lũy vốn và các quá trình thị trường hoá; không tạo ra một bầu không khí tiêu cực và không chắc chắn cho doanh nghiệp dưới danh nghĩa chống tham nhũng và phục vụ nhu cầu của “nhân dân”; nhưng cũng không dựng lên một hệ thống mới để thay thế cho chủ nghĩa Tư bản, vì không thể thực hiện được một nhiệm vụ hoành tráng như vậy. Ít nhất Venezuela là một nền kinh tế hỗn hợp với các chính sách chống buôn bán của chính phủ, khiến thị trường bị bóp méo và chậm phát triển.
Khía cạnh Xã hội chủ nghĩa nhất của Venezuela là trong nhiệm kỳ tổng thống Chavez, lợi nhuận của Venezuela Petroleos de Venezuela SA. (một công ty dầu khí thuộc sở hữu nhà nước), đã được sử dụng để tài trợ cho các chương trình xã hội.
Chính sách của ông Chavez là dân túy, tăng trợ cấp xã hội dựa vào các nguồn lợi từ dầu hỏa. Nên khi dầu hỏa mất giá thì lập tức rơi vào thê thảm.
Chỉ có thần kinh mới đi so tình trạng của Venezuela, một nước hoàn toàn phụ thuộc vào dầu hỏa và không có sản xuất một cuộn giấy vệ sinh nữa, với Việt Nam và nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất nhì thế giới, hơn gấp 30 lần chỉ trong hơn 20 năm!
Thời điểm để làm mốc so sánh: 1989 (Việt Nam thực hiện đường lối Đổi mới); 1994 (Hoa Kỳ bãi bỏ các lệnh cấm vận đối với Việt Nam); 2017 (thời điểm hiện tại).
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), trong vòng 28 năm và 23 năm qua, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người của Việt Nam tăng gấp 23,7 lần và 10,3 lần.
Trong khoảng thời gian đó, các nước ASEAN tăng trưởng như sau: Thái Lan 4,7 lần và 2,5 lần; Singapore 5,0 lần và 2,5 lần; Malaysia 4,1 lần và 2,4 lần; Indonesia 5,5 lần và 3,5 lần; Philippimes 3,8 lần và 2,8 lần.
Đối với các nước có mức sống tương đương Việt Nam, mức thay đổi không quá 5 lần. Cụ thể: Bangladesh 4,7 lần và 4,3 lần; Nigeria 3,0 lần và 2,6 lần; Mozambique 2,2 lần và 2,6 lần.
Những nước đang phát triển và mới nổi trong châu Á tăng trưởng 10,6 lần và 8,6 lần. Hàn Quốc, quốc gia tạo nên kỳ tích ở châu Á, cũng chỉ tăng trưởng 5,2 lần và 2,9 lần. Cộng hòa Mandives, thiên đường du lịch của thế giới, cũng chỉ tăng trưởng 12,7 lần và 7,9 lần.
Theo Dự báo của PricewaterhouseCoopers (PwC), kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng trung bình 5%/năm, trong vòng 34 năm tới. Với mức tăng trưởng cao nhất thế giới như vậy, GDP của Việt Nam (tính theo phương pháp ngang giá sức mua - PPP) sẽ vượt Canada, Italia và lọt Top 20 thế giới. Đây là nội dung trong Báo cáo “Trật tự thế giới toàn cầu sẽ thay đổi ra sao đến năm 2050” được PwC công bố hồi tháng 02/2017. Mà PwC là một trong bốn công ty kiểm toán hàng đầu thế giới. Nhóm này được gọi là Big 4 (KPMG, Deloitte, Ernst & Young, PricewaterhouseCoopers) và luôn dự báo kinh tế theo phương pháp khoa học.
Việt Nam còn là nước xuất khẩu và thâm hụt thương mại với Mỹ số 1 ở Đông Nam Á. Việt Nam xuất siêu theo con số tuyệt đối vào Mỹ đứng thứ 6, trên cả Hàn Quốc (32 tỉ so với 28 tỉ). Xét về thâm hụt thương mại trên tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, Việt Nam (61%) đứng nhì chỉ sau Ireland (65%), cao hơn cả Trung Quốc (59%), Nhật Bản (35%) và Hàn Quốc (25%).
Đó là lí do vì sao người làm ăn lên chức tổng thống Mỹ như anh Trump hỉ hả, sốt sắng, đặc biệt ưu ái đến vậy với Việt Nam trong tour Asia kì này (theo Forbes) đó! 😁
PS: Hình chụp lúc đi chơi Huntington Beach - xứ đầu karaoke - Mỹ, nơi quay cảnh phim “Những người thừa kế” của Hàn xẻng, tặng cho ai khoái thằng Kim Tan 😁
Huyền Kate
Ê ê rận, đồ thần kinh! Venezuela nó vỡ nợ thì kệ tía nó, sao cứ réo Việt Nam tụi tui quài zạ!!! 🙄
Nước tư bản Hi Lạp sắp vỡ nợ chắc cũng sẽ tru tréo là tại Cộng Sản ha! 🤔
Cứ cấy cho dân hai chữ nợ công cao và sắp vỡ nợ để kích động hoài, bực rồi nha! 😡
- Thế nào là nợ công cao? 60% (Việt Nam) là cao hay 300% (Nhật Bản) là cao? Thật ra khái niệm cao nó nằm ở vế thứ 2 vỡ nợ, hay nói cách khác là khả năng trả nợ của một quốc gia. Nếu một quốc gia không có khả năng trả nợ thì dù bạn vay có 10% bạn cũng sẽ bị vỡ nợ đúng không? Cho nên khái niệm cao chỉ là tương đối.
- Việt Nam có khả năng trả nợ không? Đầu tiên bạn phải chia khoản nợ của bạn thành 2 phần. Nợ chủ nợ trong nước và nợ chủ nợ nước ngoài. Nợ trong nước của Việt Nam khoảng 50% tổng nợ. Tức là 60 tỉ USD. Nợ nước ngoài là 60 tỉ USD còn lại, tập trung vào 3 đối tác chính là ADB, WB và Nhật Bản.
Khi nói về khả năng trả nợ thì điều đầu tiên cần nói là khả năng đàm phán giãn nợ.
50% nợ trong nước chủ yếu là do các ngân hàng trong nước nắm trái phiếu chính phủ. Mà ngân hàng trong nước thì có 4 ngân hàng lớn nhất thì đều nằm trong tay chính phủ, ngân hàng do nhà nước nắm chi phối chiếm 60% ~ 70% thị phần tài chính của Việt Nam. Nói cách khác, chính phủ chi phối hoàn toàn hoạt động của nền tài chính và ngân hàng của Việt Nam. Vậy bạn tin với khoản nợ trong nước ai mới là kèo trên trong đàm phán?
50% còn lại, thì Nhật Bản chiếm 35%, đối tác này có khả năng đàm phán cao nhất do Việt Nam có quan hệ chính trị rất tốt với Nhật Bản. Khó nhất là 2 đối tác WB và ADB, chiếm 43% (25 tỉ USD) nợ của Việt Nam. Nhưng may sao Nhật Bản cũng lại là cổ đông lớn nhất của ADB. Vậy nếu trường hợp các đối tác này ép Việt Nam trả nợ thì sao?
+ Lợi nhuận của Viettel là 2 tỉ USD
+ Lợi nhuận của Mobifone là 500 triệu USD
+ Lợi nhuận của Petrolimex 800 triệu USD
+ Lợi nhuận của Vinamilk là 500 triệu USD
+ Còn một loạt tập đoàn nhà nước khác như Vietnam Airline, Vietcombank, Viettinbank, Arigbank, BIDV, Tập đoàn khoáng sản, Tập đoàn dệt may, Sabeco, ....
Chỉ thuần túy lấy lợi nhuận hàng năm của các tập đoàn nhà nước thôi bạn có thể thấy nó hơn cả chục tỉ USD rồi, chưa kể dự trữ ngoại hối là 46 tỉ USD nữa, bạn nghĩ Việt Nam đủ khả năng trả khoản nợ 25 tỉ USD nếu WB và ADB đòi ngay trong 1 năm không? Huống chi giờ là đòi nhiều năm! 25 tỉ USD thì bỏ bèng gì, 120 tỉ USD muốn vẫn có khả năng trả được liền (dù cái giá là không nhỏ).
Vấn đề của Việt Nam không phải là vỡ nợ mà là vỡ trần nợ công do chúng ta tự đặt ra để đảm bảo hiệu quả chi tiêu và an toàn tài chính lâu dài. Còn khả năng Việt Nam vỡ nợ trong tình hình hiện tại thì gần như bằng 0 nhá!
👉 Venezuela có phải là một nước Xã hội chủ nghĩa hay Cộng Sản không?
KHÔNG!!! Venezuela không phải là một nhà nước Xã hội chủ nghĩa theo nghĩa của việc chính phủ và hiến pháp của nó có chính thức ràng buộc để xây dựng Xã hội chủ nghĩa hay không (đây là những gì một “nhà nước Xã hội chủ nghĩa” phải là, theo nghĩa của Chủ nghĩa Cộng sản Mác/Lênin). Venezuela là một nước Cộng hoà liên bang nghị viện, cũng đa nguyên đa đảng đối lập như kiểu Mỹ. Chỉ là ở vị trí cao nhất, một đảng Xã hội chủ nghĩa, Đảng Xã Hội Chủ Nghĩa Thống Nhất của Venezuela, đã chiếm đa số ghế trong Quốc hội các năm 2000-2015 và hai vị Tổng thống thắng áp đảo của nước này thuộc về đảng này mà thôi!
👉 Venezuela có nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa không?
Câu trả lời cho điều này rõ ràng là KHÔNG!!! Năng động tích lũy vốn để thúc đẩy hoạt động kinh tế mà tìm kiếm lợi nhuận, hầu hết các doanh nghiệp được tư nhân hoá, mối quan hệ mức lương lao động vẫn được đặt ra và thậm chí cơ bản hơn... Venezuela vẫn hoạt động trong hệ thống thị trường Tư bản chủ nghĩa toàn cầu. Chính phủ không can thiệp tới quá trình tích lũy vốn và các quá trình thị trường hoá; không tạo ra một bầu không khí tiêu cực và không chắc chắn cho doanh nghiệp dưới danh nghĩa chống tham nhũng và phục vụ nhu cầu của “nhân dân”; nhưng cũng không dựng lên một hệ thống mới để thay thế cho chủ nghĩa Tư bản, vì không thể thực hiện được một nhiệm vụ hoành tráng như vậy. Ít nhất Venezuela là một nền kinh tế hỗn hợp với các chính sách chống buôn bán của chính phủ, khiến thị trường bị bóp méo và chậm phát triển.
Khía cạnh Xã hội chủ nghĩa nhất của Venezuela là trong nhiệm kỳ tổng thống Chavez, lợi nhuận của Venezuela Petroleos de Venezuela SA. (một công ty dầu khí thuộc sở hữu nhà nước), đã được sử dụng để tài trợ cho các chương trình xã hội.
Chính sách của ông Chavez là dân túy, tăng trợ cấp xã hội dựa vào các nguồn lợi từ dầu hỏa. Nên khi dầu hỏa mất giá thì lập tức rơi vào thê thảm.
Chỉ có thần kinh mới đi so tình trạng của Venezuela, một nước hoàn toàn phụ thuộc vào dầu hỏa và không có sản xuất một cuộn giấy vệ sinh nữa, với Việt Nam và nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất nhì thế giới, hơn gấp 30 lần chỉ trong hơn 20 năm!
Thời điểm để làm mốc so sánh: 1989 (Việt Nam thực hiện đường lối Đổi mới); 1994 (Hoa Kỳ bãi bỏ các lệnh cấm vận đối với Việt Nam); 2017 (thời điểm hiện tại).
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), trong vòng 28 năm và 23 năm qua, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người của Việt Nam tăng gấp 23,7 lần và 10,3 lần.
Trong khoảng thời gian đó, các nước ASEAN tăng trưởng như sau: Thái Lan 4,7 lần và 2,5 lần; Singapore 5,0 lần và 2,5 lần; Malaysia 4,1 lần và 2,4 lần; Indonesia 5,5 lần và 3,5 lần; Philippimes 3,8 lần và 2,8 lần.
Đối với các nước có mức sống tương đương Việt Nam, mức thay đổi không quá 5 lần. Cụ thể: Bangladesh 4,7 lần và 4,3 lần; Nigeria 3,0 lần và 2,6 lần; Mozambique 2,2 lần và 2,6 lần.
Những nước đang phát triển và mới nổi trong châu Á tăng trưởng 10,6 lần và 8,6 lần. Hàn Quốc, quốc gia tạo nên kỳ tích ở châu Á, cũng chỉ tăng trưởng 5,2 lần và 2,9 lần. Cộng hòa Mandives, thiên đường du lịch của thế giới, cũng chỉ tăng trưởng 12,7 lần và 7,9 lần.
Theo Dự báo của PricewaterhouseCoopers (PwC), kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng trung bình 5%/năm, trong vòng 34 năm tới. Với mức tăng trưởng cao nhất thế giới như vậy, GDP của Việt Nam (tính theo phương pháp ngang giá sức mua - PPP) sẽ vượt Canada, Italia và lọt Top 20 thế giới. Đây là nội dung trong Báo cáo “Trật tự thế giới toàn cầu sẽ thay đổi ra sao đến năm 2050” được PwC công bố hồi tháng 02/2017. Mà PwC là một trong bốn công ty kiểm toán hàng đầu thế giới. Nhóm này được gọi là Big 4 (KPMG, Deloitte, Ernst & Young, PricewaterhouseCoopers) và luôn dự báo kinh tế theo phương pháp khoa học.
Việt Nam còn là nước xuất khẩu và thâm hụt thương mại với Mỹ số 1 ở Đông Nam Á. Việt Nam xuất siêu theo con số tuyệt đối vào Mỹ đứng thứ 6, trên cả Hàn Quốc (32 tỉ so với 28 tỉ). Xét về thâm hụt thương mại trên tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, Việt Nam (61%) đứng nhì chỉ sau Ireland (65%), cao hơn cả Trung Quốc (59%), Nhật Bản (35%) và Hàn Quốc (25%).
Đó là lí do vì sao người làm ăn lên chức tổng thống Mỹ như anh Trump hỉ hả, sốt sắng, đặc biệt ưu ái đến vậy với Việt Nam trong tour Asia kì này (theo Forbes) đó! 😁
PS: Hình chụp lúc đi chơi Huntington Beach - xứ đầu karaoke - Mỹ, nơi quay cảnh phim “Những người thừa kế” của Hàn xẻng, tặng cho ai khoái thằng Kim Tan 😁
SỰ THẬT ĐẰNG SAU CUỘC DI DÂN VÀO MIỀN NAM NĂM 1954 CỦA ĐỒNG BÀO CÔNG GIÁO
SỰ THẬT ĐẰNG SAU CUỘC DI DÂN VÀO MIỀN NAM NĂM 1954 CỦA ĐỒNG BÀO CÔNG GIÁO
-----------
8-1954: Mỹ tổ chức cưỡng ép đồng bào miền Bắc di cư vào Nam.
Thất bại ở Điện Biên Phủ, thực dân Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơnevơ (21-7-1954). Thế nhưng, thực dân Pháp cấu kết với đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm tìm mọi cách phá hoại Hiệp định Giơnevơ hòng chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới, một tiền đồn chống cộng lý tưởng của chúng ở Đông Nam Á. Để đạt được âm mưu đã vạch ra, một trong những thủ đoạn nham hiểm mà Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đưa ra là chính sách di cư.
Ngay từ khi vấn đề chấm dứt chiến tranh Việt Nam và Đông Dương còn đang được đàm phán ở Giơnevơ, giới cầm quyền Washington đã dự báo sẽ có sự chia đôi tạm thời nước Việt Nam trong một thời gian nhất định, và sau đó sẽ có cuộc tổng tuyển cử để đi đến thống nhất đất nước. Dưới nhãn quan của giới cầm quyền Washington, việc tiến hành tổng tuyển cử đồng nghĩa với thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Để điều này không diễn ra, Tổng thống Mỹ, Eisenhower đã tính đến kế hoạch di cư của đồng bào miền Bắc vào Nam. Với nhãn quan chính trị như vậy, khi Hiệp định Giơnevơ còn chưa ráo mực, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm bắt tay ngay vào việc thực thi kế hoạch này.
Chính sách di cư của Mỹ - Diệm nhằm đạt ba mục đích cơ bản sau:
Một là, về mặt chính trị, đối với thế giới, Mỹ và tay sai cố tạo ra dư luận xấu về chế độ của Việt Nam ở miền Bắc nhằm ngăn chặn sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của nhân dân ta; tạo ra ảnh hưởng xấu của cách mạng Việt Nam đối với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á.
Hai là, về kinh tế - xã hội, đối với miền Bắc, Mỹ - Diệm hi vọng rút được một số lượng trí thức, công nhân kĩ thuật vào Nam, tạo ra những xáo động lớn, phá hoại sản xuất, làm cho miền Bắc không ổn định về kinh tế, khiến cho lòng người li tán, nội bộ lục đục, gây khó khăn cho ta trong cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà và hàn gắn vết thương sau chiến tranh. Đối với miền Nam, vùng bị tạm chiếm, dân di cư sẽ là nguồn cung cấp nhân công rẻ mạt cho các đồn điền cao su, cà phê, cây ăn quả và một số cây công nghiệp mới du nhập sau Chiến tranh thế giới thứ hai ở miền Nam.
Ba là, ở miền Nam, với số người di cư, Mỹ - Diệm nhằm “thăng bằng sự chênh lệch giữa dân số miền Bắc 12 triệu và dân số miền Nam 11 triệu”. Điều này có nghĩa là “tăng thêm hi vọng của thắng lợi tổng tuyển cử đối với những lãnh tụ quốc gia, đồng thời tạo ra cơ sở xã hội vững chắc cho chế độ Diệm. Đồng bào di cư là nguồn nhân lực quan trọng đáng kể để xây dựng ngụy quân, củng cố ngụy quyền.
Những biện pháp thực hiện:
Về chính trị - tư tưởng: Để chuẩn bị cho những chiến dịch di cư, Mỹ - Diệm đã thành lập các tổ chức, các cơ quan chuyên chỉ đạo, đôn đốc, giúp đỡ di cư. Ngày 9-8-1954, tại Sài Gòn, Ngô Đình Diệm kí quyết định thành lập Phủ Tổng ủy di cư tị nạn do Bùi Văn Lương đứng đầu, với nhiệm vụ điều khiển việc di cư từ Bắc vào Nam. Bên cạnh Phủ Tổng ủy di cư tị nạn, một tổ chức cứu trợ di cư cũng được thành lập do Linh mục Phạm Ngọc Chi đứng đầu. Sau đó, chúng còn thành lập “Hội đồng di cư Bắc Việt” lo việc huấn luyện gián điệp, tổ chức hoạt động dụ dỗ, cưỡng bức di cư… Bộ máy ngụy quyền được tập trung ở mức cao độ cho chiến dịch cưỡng ép di cư.
Trước hết, Mỹ - Diệm tuyên truyền, xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước ta, như cộng sản là vô thần nên sẽ cấm đạo, bỏ tù những người từng theo Pháp. Ngoài ra, chúng còn cố tình đặt ra những chuyện khủng khiếp để lung lạc quần chúng nhân dân.
Một thủ đoạn khác là Mỹ - Diệm lợi dụng những sai lầm của ta trong cải cách ruộng đất, tuyên truyền gây cho nhân dân hoang mang, sợ sệt và mất niềm tin vào Đảng và Nhà nước, Mỹ - Diệm còn triệt để khai thác việc những địa chủ gian ác làm tay sai cho đế quốc bị đấu tố trong cải cách ruộng đất, để dọa dẫm rằng ở lại miền Bắc, những người hợp tác với đối phương sẽ bị bắt.
Thâm độc nhất là Mỹ - Diệm nắm bắt được sự hiểu biết hạn chế của giáo dân và dựng lên hình ảnh: “Đức Mẹ và con trai là Chúa Giêsu đã vào Nam”, rằng “nếu họ ở lại dưới chính quyền cộng sản họ sẽ bị bom nguyên tử huỷ diệt và sẽ mất linh hồn”. Có nơi, địch bố trí ảnh Đức Mẹ, làm cho khi giáo dân đến cầu nguyện trông lên ảnh thấy mắt nhấp nháy và tay cử động, rồi nhân đó nói rằng Đức Mẹ hiện về khuyên giáo dân đi Nam.
Khi thấy tâm lý giáo dân có sự dao động, địch dùng biện pháp rút cha cố đi rồi cho tay sai lôi kéo con chiên đi sau. Mỹ - Diệm còn ra lệnh chuyển địa điểm các kì thi vào Nam, đóng cửa, phá phách các trường học, buộc thầy giáo và học trò phải đi theo chúng.
Về kinh tế: Thứ nhất, Mỹ - Diệm tuyên truyền rằng vào Nam sẽ có tự do, đời sống sung túc. Uỷ ban Trung ương di cư của Diệm ra lời kêu gọi: “Hỡi anh chị em Gia tô giáo, hàng trăm máy khổng lồ đang đợi chờ để chuyên chở miễn phí các anh chị em vào Sài Gòn, ở miền Nam. Ở đó, anh chị em sẽ được tặng ruộng đất phì nhiêu… Nếu ở lại miền Bắc, anh chị em sẽ gặp nạn đói và linh hồn sẽ sa hoả ngục”, rằng “nông dân vào Nam sẽ có mỗi người 3 mẫu ruộng, 2 con trâu, nhà cửa sẵn”.
Thứ hai, đối tượng mà Mỹ - Diệm tập trung cưỡng ép di cư vào Nam bao gồm ngụy binh và gia đình của họ, giáo dân, thanh niên, công chức, giáo viên, những người trí thức và nhà chuyên môn… Để cưỡng bức được nhiều đồng bào di cư vào Nam, sau Hiệp định Giơnevơ, địch đóng cửa Ngân hàng Đông Dương, không cho rút tiền ra rồi sau đó chuyển tiền vào Nam, buộc những người gửi phải vào Sài Gòn để lĩnh.
Thứ ba, Mỹ - Diệm bày trò làm công tác từ thiện, phát chẩn gạo cho một số người túng thiếu. Khi họ đưa thẻ ra lĩnh, chúng đóng dấu dòng chữ “đồng ý đi Nam” vào rồi cho mật thám, công an ra sức “hỏi thăm”, lùng bắt những người này hoặc thưởng tiền cho những kẻ thừa hành nếu “rủ được một thanh niên hay phụ nữ đi thì được thưởng từ 300 đến 800 đồng”.
Thứ tư, tay chân của Mỹ - Diệm còn tìm mọi cách làm cho tài sản của giáo dân trở nên khánh kiệt, không còn một chút gì để hi vọng trở lại quê hương, như bắt giáo dân phải bán nhà cửa, đồ đạc, trâu bò, thuyền lưới, ngăn cấm đồng bào đi làm ăn hoặc đi buôn các nơi, không cho thuê mướn người làm việc. Thâm độc hơn, địch thả côn trùng xuống một số địa phương để phá hoại sản xuất, phá hoại mùa màng. Có nơi địch cho tay chân “lén lút tháo nước làm cho ruộng khô, vài nơi chúng phá bờ cho nước mặn vào…” như ở Tĩnh Gia (Thanh Hoá).
Ngày 19-8, chuyến tàu Mỹ chở dân di cư đầu tiên tới Sài Gòn. Cũng trong thời gian này, Mỹ phái các giáo chủ, giám mục cùng với nhân viên C.I.A ở Sài Gòn phối hợp với bọn phản động đội lốt Giáo hội Việt Nam tổ chức chiến dịch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào ta, nhất là số người theo đạo Thiên chúa ở miền Bắc di cư vào miền Nam.
Chính phủ Mỹ đã bỏ ra 55 triệu đô la, Pháp chi 66 tỷ phrăng cho việc thực hiện chiến dịch này.
Về phương diện di cư, ngoài đường bộ thì đường biển và đường hàng không cũng được sử dụng. Mỹ và Pháp đã đưa một đoàn gồm 19 máy bay, 41 tàu thuỷ để chuyên chở những người bị cưỡng ép, dụ dỗ di cư vào Nam, ngoài ra Mỹ còn đài thọ toàn bộ chi phí chuyên chở.
Chính sách di cư của Mỹ - Diệm diễn ra với quy mô lớn. Việc cưỡng ép di cư được tiến hành trên khắp miền Bắc, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, từ đồng bào Kinh đến đồng bào dân tộc. Với việc áp dụng tất cả những biện pháp trên, chính sách di cư của Mỹ - Diệm thu được một số kết quả. Trong khoảng gần 10 tháng, đã đưa được gần 1 triệu người ở miền Bắc di cư vào miền Nam, trong đó có khoảng 800.000 người Công giáo, tức khoảng 2/3 số người Công giáo ở miền Bắc đã bỏ vào Nam. Đến tháng 9-1955, chính quyền Ngô Đình Diệm đã lập được 286 làng định cư, trong đó có đến 265 làng định cư Thiên Chúa giáo. Mỗi làng do một vị linh mục đứng đầu. Số người di cư được chính quyền Ngô Đình Diệm phân phối định cư ở hầu hết các tỉnh ở miền Nam, từ Quảng Trị đến Cà Mau, trong đó Tây Nguyên: 30.878 người, Trung Bộ: 101.738 người, Nam Bộ: 606.914 người.
Nguồn: Bảo tàng lịch sử quốc gia
#TNVN #THANHNIENVIETNAM #THANHNIENTPHCM
-----------
8-1954: Mỹ tổ chức cưỡng ép đồng bào miền Bắc di cư vào Nam.
Thất bại ở Điện Biên Phủ, thực dân Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơnevơ (21-7-1954). Thế nhưng, thực dân Pháp cấu kết với đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm tìm mọi cách phá hoại Hiệp định Giơnevơ hòng chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới, một tiền đồn chống cộng lý tưởng của chúng ở Đông Nam Á. Để đạt được âm mưu đã vạch ra, một trong những thủ đoạn nham hiểm mà Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đưa ra là chính sách di cư.
Ngay từ khi vấn đề chấm dứt chiến tranh Việt Nam và Đông Dương còn đang được đàm phán ở Giơnevơ, giới cầm quyền Washington đã dự báo sẽ có sự chia đôi tạm thời nước Việt Nam trong một thời gian nhất định, và sau đó sẽ có cuộc tổng tuyển cử để đi đến thống nhất đất nước. Dưới nhãn quan của giới cầm quyền Washington, việc tiến hành tổng tuyển cử đồng nghĩa với thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Để điều này không diễn ra, Tổng thống Mỹ, Eisenhower đã tính đến kế hoạch di cư của đồng bào miền Bắc vào Nam. Với nhãn quan chính trị như vậy, khi Hiệp định Giơnevơ còn chưa ráo mực, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm bắt tay ngay vào việc thực thi kế hoạch này.
Chính sách di cư của Mỹ - Diệm nhằm đạt ba mục đích cơ bản sau:
Một là, về mặt chính trị, đối với thế giới, Mỹ và tay sai cố tạo ra dư luận xấu về chế độ của Việt Nam ở miền Bắc nhằm ngăn chặn sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của nhân dân ta; tạo ra ảnh hưởng xấu của cách mạng Việt Nam đối với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á.
Hai là, về kinh tế - xã hội, đối với miền Bắc, Mỹ - Diệm hi vọng rút được một số lượng trí thức, công nhân kĩ thuật vào Nam, tạo ra những xáo động lớn, phá hoại sản xuất, làm cho miền Bắc không ổn định về kinh tế, khiến cho lòng người li tán, nội bộ lục đục, gây khó khăn cho ta trong cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà và hàn gắn vết thương sau chiến tranh. Đối với miền Nam, vùng bị tạm chiếm, dân di cư sẽ là nguồn cung cấp nhân công rẻ mạt cho các đồn điền cao su, cà phê, cây ăn quả và một số cây công nghiệp mới du nhập sau Chiến tranh thế giới thứ hai ở miền Nam.
Ba là, ở miền Nam, với số người di cư, Mỹ - Diệm nhằm “thăng bằng sự chênh lệch giữa dân số miền Bắc 12 triệu và dân số miền Nam 11 triệu”. Điều này có nghĩa là “tăng thêm hi vọng của thắng lợi tổng tuyển cử đối với những lãnh tụ quốc gia, đồng thời tạo ra cơ sở xã hội vững chắc cho chế độ Diệm. Đồng bào di cư là nguồn nhân lực quan trọng đáng kể để xây dựng ngụy quân, củng cố ngụy quyền.
Những biện pháp thực hiện:
Về chính trị - tư tưởng: Để chuẩn bị cho những chiến dịch di cư, Mỹ - Diệm đã thành lập các tổ chức, các cơ quan chuyên chỉ đạo, đôn đốc, giúp đỡ di cư. Ngày 9-8-1954, tại Sài Gòn, Ngô Đình Diệm kí quyết định thành lập Phủ Tổng ủy di cư tị nạn do Bùi Văn Lương đứng đầu, với nhiệm vụ điều khiển việc di cư từ Bắc vào Nam. Bên cạnh Phủ Tổng ủy di cư tị nạn, một tổ chức cứu trợ di cư cũng được thành lập do Linh mục Phạm Ngọc Chi đứng đầu. Sau đó, chúng còn thành lập “Hội đồng di cư Bắc Việt” lo việc huấn luyện gián điệp, tổ chức hoạt động dụ dỗ, cưỡng bức di cư… Bộ máy ngụy quyền được tập trung ở mức cao độ cho chiến dịch cưỡng ép di cư.
Trước hết, Mỹ - Diệm tuyên truyền, xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước ta, như cộng sản là vô thần nên sẽ cấm đạo, bỏ tù những người từng theo Pháp. Ngoài ra, chúng còn cố tình đặt ra những chuyện khủng khiếp để lung lạc quần chúng nhân dân.
Một thủ đoạn khác là Mỹ - Diệm lợi dụng những sai lầm của ta trong cải cách ruộng đất, tuyên truyền gây cho nhân dân hoang mang, sợ sệt và mất niềm tin vào Đảng và Nhà nước, Mỹ - Diệm còn triệt để khai thác việc những địa chủ gian ác làm tay sai cho đế quốc bị đấu tố trong cải cách ruộng đất, để dọa dẫm rằng ở lại miền Bắc, những người hợp tác với đối phương sẽ bị bắt.
Thâm độc nhất là Mỹ - Diệm nắm bắt được sự hiểu biết hạn chế của giáo dân và dựng lên hình ảnh: “Đức Mẹ và con trai là Chúa Giêsu đã vào Nam”, rằng “nếu họ ở lại dưới chính quyền cộng sản họ sẽ bị bom nguyên tử huỷ diệt và sẽ mất linh hồn”. Có nơi, địch bố trí ảnh Đức Mẹ, làm cho khi giáo dân đến cầu nguyện trông lên ảnh thấy mắt nhấp nháy và tay cử động, rồi nhân đó nói rằng Đức Mẹ hiện về khuyên giáo dân đi Nam.
Khi thấy tâm lý giáo dân có sự dao động, địch dùng biện pháp rút cha cố đi rồi cho tay sai lôi kéo con chiên đi sau. Mỹ - Diệm còn ra lệnh chuyển địa điểm các kì thi vào Nam, đóng cửa, phá phách các trường học, buộc thầy giáo và học trò phải đi theo chúng.
Về kinh tế: Thứ nhất, Mỹ - Diệm tuyên truyền rằng vào Nam sẽ có tự do, đời sống sung túc. Uỷ ban Trung ương di cư của Diệm ra lời kêu gọi: “Hỡi anh chị em Gia tô giáo, hàng trăm máy khổng lồ đang đợi chờ để chuyên chở miễn phí các anh chị em vào Sài Gòn, ở miền Nam. Ở đó, anh chị em sẽ được tặng ruộng đất phì nhiêu… Nếu ở lại miền Bắc, anh chị em sẽ gặp nạn đói và linh hồn sẽ sa hoả ngục”, rằng “nông dân vào Nam sẽ có mỗi người 3 mẫu ruộng, 2 con trâu, nhà cửa sẵn”.
Thứ hai, đối tượng mà Mỹ - Diệm tập trung cưỡng ép di cư vào Nam bao gồm ngụy binh và gia đình của họ, giáo dân, thanh niên, công chức, giáo viên, những người trí thức và nhà chuyên môn… Để cưỡng bức được nhiều đồng bào di cư vào Nam, sau Hiệp định Giơnevơ, địch đóng cửa Ngân hàng Đông Dương, không cho rút tiền ra rồi sau đó chuyển tiền vào Nam, buộc những người gửi phải vào Sài Gòn để lĩnh.
Thứ ba, Mỹ - Diệm bày trò làm công tác từ thiện, phát chẩn gạo cho một số người túng thiếu. Khi họ đưa thẻ ra lĩnh, chúng đóng dấu dòng chữ “đồng ý đi Nam” vào rồi cho mật thám, công an ra sức “hỏi thăm”, lùng bắt những người này hoặc thưởng tiền cho những kẻ thừa hành nếu “rủ được một thanh niên hay phụ nữ đi thì được thưởng từ 300 đến 800 đồng”.
Thứ tư, tay chân của Mỹ - Diệm còn tìm mọi cách làm cho tài sản của giáo dân trở nên khánh kiệt, không còn một chút gì để hi vọng trở lại quê hương, như bắt giáo dân phải bán nhà cửa, đồ đạc, trâu bò, thuyền lưới, ngăn cấm đồng bào đi làm ăn hoặc đi buôn các nơi, không cho thuê mướn người làm việc. Thâm độc hơn, địch thả côn trùng xuống một số địa phương để phá hoại sản xuất, phá hoại mùa màng. Có nơi địch cho tay chân “lén lút tháo nước làm cho ruộng khô, vài nơi chúng phá bờ cho nước mặn vào…” như ở Tĩnh Gia (Thanh Hoá).
Ngày 19-8, chuyến tàu Mỹ chở dân di cư đầu tiên tới Sài Gòn. Cũng trong thời gian này, Mỹ phái các giáo chủ, giám mục cùng với nhân viên C.I.A ở Sài Gòn phối hợp với bọn phản động đội lốt Giáo hội Việt Nam tổ chức chiến dịch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào ta, nhất là số người theo đạo Thiên chúa ở miền Bắc di cư vào miền Nam.
Chính phủ Mỹ đã bỏ ra 55 triệu đô la, Pháp chi 66 tỷ phrăng cho việc thực hiện chiến dịch này.
Về phương diện di cư, ngoài đường bộ thì đường biển và đường hàng không cũng được sử dụng. Mỹ và Pháp đã đưa một đoàn gồm 19 máy bay, 41 tàu thuỷ để chuyên chở những người bị cưỡng ép, dụ dỗ di cư vào Nam, ngoài ra Mỹ còn đài thọ toàn bộ chi phí chuyên chở.
Chính sách di cư của Mỹ - Diệm diễn ra với quy mô lớn. Việc cưỡng ép di cư được tiến hành trên khắp miền Bắc, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, từ đồng bào Kinh đến đồng bào dân tộc. Với việc áp dụng tất cả những biện pháp trên, chính sách di cư của Mỹ - Diệm thu được một số kết quả. Trong khoảng gần 10 tháng, đã đưa được gần 1 triệu người ở miền Bắc di cư vào miền Nam, trong đó có khoảng 800.000 người Công giáo, tức khoảng 2/3 số người Công giáo ở miền Bắc đã bỏ vào Nam. Đến tháng 9-1955, chính quyền Ngô Đình Diệm đã lập được 286 làng định cư, trong đó có đến 265 làng định cư Thiên Chúa giáo. Mỗi làng do một vị linh mục đứng đầu. Số người di cư được chính quyền Ngô Đình Diệm phân phối định cư ở hầu hết các tỉnh ở miền Nam, từ Quảng Trị đến Cà Mau, trong đó Tây Nguyên: 30.878 người, Trung Bộ: 101.738 người, Nam Bộ: 606.914 người.
Nguồn: Bảo tàng lịch sử quốc gia
#TNVN #THANHNIENVIETNAM #THANHNIENTPHCM
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)