Tìm kiếm

Thứ Hai, 10 tháng 2, 2025

THÚC ĐẨY QUAN HỆ NGHỊ VIỆN VIỆT NAM -ĐAN MẠCH ĐI VÀO CHIỀU SÂU, THỰC CHẤT



Chiều 10.2, tại Nhà Quốc hội, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Đôn Tuấn Phong đã tiếp Đại sứ Đan Mạch tại Việt Nam Nicolai Prytz.


Phó Chủ Nhiệm Ủy ban Đối ngoại Đôn Tuấn Phong nêu rõ, quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện Việt Nam - Đan Mạch đang phát triển sâu rộng, hiệu quả trên mọi lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực mang tính chiến lược là khí hậu và môi trường, tạo nền tảng quan trọng để đưa quan hệ hai nước lên tầm cao mới.


Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại nhấn mạnh, Đan Mạch là đối tác quan trọng của Việt Nam tại châu Âu và khu vực Bắc Âu. Việt Nam luôn coi trọng Đan Mạch và mong muốn triển khai hiệu quả các khuôn khổ quan hệ đã được thiết lập giữa hai nước.


Trong tổng thể quan hệ tốt đẹp giữa hai nước, quan hệ hợp tác nghị viện Việt Nam và Đan Mạch đã đạt được một số kết quả tích cực, thông qua các chuyến thăm cấp Ủy ban, giao lưu và tiếp xúc giữa các nghị sĩ, phối hợp trên các diễn đàn nghị viện đa phương. Cho biết, trong thời gian tới, các cơ quan của Quốc hội Việt Nam sẽ tiếp tục được kiện toàn, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại đề nghị Quốc hội hai nước phối hợp chặt chẽ hơn nữa nhằm tăng cường trao đổi đoàn các cấp; tăng cường giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giữa các Ủy ban chuyên môn, Nhóm Nghị sĩ hữu nghị, nghị sĩ trẻ và nữ nghị sĩ. Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại đề nghị, Đại sứ tiếp tục phát huy vai trò cầu nối, hợp tác chặt chẽ với các cơ quan của Quốc hội Việt Nam để quan hệ nghị viện hai nước ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất trong thời gian tới.


Đại sứ Đan Mạch tại Việt Nam Nicolai Prytz nhất trí với các ý kiến của Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại; khẳng định Đan Mạch mong muốn tăng cường hợp tác với Việt Nam trong các lĩnh vực, đặc biệt là những lĩnh vực hai bên có thế mạnh và quan tâm.


Tại cuộc tiếp, Đại sứ Đan Mạch Nicolai Prytz đã trao đổi một số biện pháp nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam và Quốc hội Vương quốc Đan Mạch, trong đó có việc phối hợp tổ chức các chuyến thăm của Quốc hội hai nước, thúc đẩy trao đổi Đoàn góp phần làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ Việt Nam - Đan Mạch./. 


Thanh Phong

SỬ DỤNG HIỆU QUẢ, KHÔNG GÂY THẤT THOÁT VỐN, TÀI SẢN NHÀ NƯỚC

 


Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhất trí việc đầu tư bổ sung vốn điều lệ giai đoạn 2024 – 2026 cho Công ty mẹ - Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC) trên nguyên tắc Chính phủ phải chịu trách nhiệm bảo đảm sử dụng vốn có hiệu quả, không gây thất thoát vốn, tài sản nhà nước, chỉ đạo VEC tiếp tục cải thiện kết quả sản xuất kinh doanh, tập trung cơ cấu lại tổ chức bộ máy để tiết kiệm chi phí. 


Tiếp tục Chương trình làm việc chiều 10.2, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về phương án đầu tư bổ sung vốn điều lệ giai đoạn 2024 - 2026 của Công ty mẹ - Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC).


Bổ sung vốn điều lệ 38.251 tỷ đồng cho Công ty mẹ - VEC


Trình bày Tờ trình phương án đầu tư bổ sung vốn điều lệ giai đoạn 2024 - 2026 của Công ty mẹ - VEC, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng nêu rõ, Chính phủ kiến nghị Quốc hội cho phép sử dụng số vốn đầu tư công đã giao kế hoạch cho Bộ Giao thông vận tải để đầu tư dự án số tiền 36.689 tỷ đồng, trong đó 10.062 tỷ đồng vốn đối ứng từ ngân sách nhà nước, 24.127 tỷ đồng vốn ODA tại các dự án thực hiện theo hình thức chuyển vốn vay về cho vay lại thành cấp phát ngân sách nhà nước, 2.500 tỷ đồng vốn cấp phát ngân sách nhà nước cho dự án Nội Bài - Lào Cai và Cầu Giẽ - Ninh Bình, để chuyển thành cấp vốn điều lệ cho Công ty mẹ -VEC.


Đồng thời, chấp thuận chủ trương đầu tư bổ sung vốn điều lệ cho Công ty mẹ VEC giai đoạn 2024 - 2026 là 38.251 tỷ đồng, bao gồm: 1.562 tỷ đồng từ Quỹ Đầu tư phát triển tại doanh nghiệp, 36.689 tỷ đồng từ nguồn ngân sách nhà nước (vốn đầu tư công đã giao kế hoạch cho Bộ Giao thông Vận tải để đầu tư 5 dự án đường bộ cao tốc do VEC làm chủ đầu tư và đã được giải ngân).


Trình bày Báo cáo thẩm tra sơ bộ, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Lê Quang Mạnh cho biết, đa số ý kiến trong Thường trực Ủy ban Tài chính – Ngân sách nhất trí với sự cần thiết đầu tư bổ sung vốn điều lệ cho Công ty mẹ - VEC.


Về mức vốn đầu tư bổ sung vốn điều lệ, đa số ý kiến Thường trực Ủy ban Tài chính – Ngân sách nhất trí với đề xuất của Chính phủ về việc sử dụng số tiền 1.562 tỷ đồng từ Quỹ Đầu tư phát triển tại doanh nghiệp để tăng vốn điều lệ cho Công ty mẹ - VEC. Riêng đối với nguồn vốn 36.689 tỷ đồng từ nguồn ngân sách nhà nước đã giải ngân đầu tư xây dựng 5 dự án đường bộ cao tốc do VEC làm chủ đầu tư, đề nghị Chính phủ báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, đồng ý chủ trương trước khi báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương tăng vốn điều lệ cho Công ty mẹ - VEC.


Về nguồn vốn đầu tư bổ sung vốn điều lệ, Thường trực Ủy ban đề nghị làm rõ việc tăng vốn điều lệ cho Công ty mẹ - VEC là tăng bằng nguồn tiền hay tài sản đối với 5 dự án đã đầu tư; trong đó tách bạch quyền, trách nhiệm quản lý, sử dụng tài sản của doanh nghiệp, việc hạch toán, kế toán khi chuyển thành vốn điều lệ của doanh nghiệp, phương án bảo toàn và phát triển vốn khi bổ sung vốn điều lệ cho VEC từ nguồn vốn này. Kiểm toán nhà nước xác định để bảo đảm cho VEC có số liệu sát thực và khả năng bảo toàn, phát triển vốn trong tương lai.


Chính phủ chịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu, hiệu quả hoạt động của VEC


Tán thành với việc bổ sung vốn điều lệ giai đoạn 2024 - 2026 của Công ty mẹ - VEC, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đề nghị các cơ quan hữu quan sớm hoàn thiện thủ tục, bảo đảm tính chính xác về thông tin, số liệu; phải có cơ quan chịu trách nhiệm là Bộ Tài chính, Kiểm toán Nhà nước phải xác nhận các số liệu này.


"Chúng ta tổ chức thực hiện, hướng dẫn kiểm tra, giám sát việc thực hiện đầu tư vốn điều lệ giai đoạn 2024 – 2026, trên nguyên tắc Chính phủ phải chịu trách nhiệm bảo đảm sử dụng vốn có hiệu quả, không gây thất thoát vốn tài sản nhà nước, chỉ đạo VEC tiếp tục cải thiện kết quả sản xuất kinh doanh, tập trung cơ cấu lại tổ chức bộ máy để tiết kiệm chi phí”, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh.


Quan tâm đến việc sử dụng 36.689 tỷ đồng từ nguồn ngân sách nhà nước đã giải ngân đầu tư xây dựng 5 dự án đường bộ cao tốc để tăng vốn điều lệ cho Công ty mẹ - VEC, Chủ tịch Quốc hội thẳng thắn, pháp luật hiện hành chưa quy định việc giao vốn đầu tư, mặt khác chúng ta chưa rõ việc tăng vốn điều lệ bằng nguồn tiền hay tài sản đối với 5 dự án; quyền, trách nhiệm quản lý sử dụng tài sản, quyền hạch toán, kế toán của doanh nghiệp khi bổ sung vốn điều lệ từ nguồn này, do vậy cần hết sức lưu tâm.


Kết luận nội dung thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải nêu rõ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất sự cần thiết phải bổ sung vốn điều lệ giai đoạn 2024 - 2026 cho Công ty mẹ - VEC, tạo điều kiện để VEC phát triển bền vững, phát huy vai trò nòng cốt trong hoạt động đầu tư, quản lý, khai thác, vận hành đường bộ cao tốc nhằm thực hiện các kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước, thực hiện chủ trương đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, nhất là hạ tầng giao thông và chủ trương phát triển một số tập đoàn nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả.


"Đây cũng là vấn đề chúng ta giải quyết khác với luật, nhưng đây là yêu cầu cấp bách trong việc đột phá về phát triển cơ sở hạ tầng". Nhấn mạnh điều này, Phó Chủ tịch Quốc hội cũng nêu rõ, “Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ chịu trách nhiệm về tính chính xác đối với số liệu, tình hình, hiệu quả hoạt động của VEC, chịu trách nhiệm về căn cứ số vốn, hình thức bổ sung vốn điều lệ cho VEC khi báo cáo cấp có thẩm quyền và khi trình Quốc hội. Nếu cấp thẩm quyền đồng ý về chủ trương đề nghị Chính phủ tiếp thu ý kiến của các cơ quan thẩm tra và ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hoàn thiện hồ sơ, tờ trình, dự thảo nghị quyết của Quốc hội gửi Quốc hội và các cơ quan thẩm tra”.


Phó Chủ tịch Quốc hội cũng lưu ý việc bổ sung báo cáo đánh giá tác động, phương án tổ chức sản xuất, kinh doanh sau khi được tăng vốn điều lệ, ưu điểm, nhược điểm, thuận lợi, khó khăn khi thực hiện phương án tăng vốn điều lệ và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân nếu để xảy ra sai phạm.


Đặc biệt, Chính phủ cần làm rõ và chịu trách nhiệm về việc phân định cấp vốn điều lệ bằng tiền so với số tiền 36.689 tỷ đồng từ nguồn ngân sách nhà nước đã giải ngân đầu tư xây dựng 5 dự án đường bộ cao tốc do VEC làm chủ đầu tư thay bằng tài sản 5 dự án cao tốc, để có căn cứ thể hiện vốn điều lệ cấp cho VEC trong dự thảo Nghị quyết của Quốc hội và xác định phương án, trách nhiệm theo dõi, quản lý, sử dụng vốn, tài sản theo quy định của pháp luật có liên quan; phân định việc cấp vốn điều lệ bằng tiền hay tài sản cần phản ánh đúng bản chất sự việc, nêu rõ căn cứ pháp lý để thuyết minh đối với Quốc hội./.


Biên Cương

TÂY NGUYÊN KHẮC GHI LỜI BÁC HỒ DẠY, VỮNG BƯỚC VÀO KỶ NGUYÊN MỚI

 


Đồng bào Tây Nguyên chưa được đón Bác Hồ về thăm buôn làng của mình, nhưng với tình cảm thiêng liêng và sâu nặng, trong tâm trí mỗi người dân trên đại ngàn hùng vĩ đều in sâu đậm hình ảnh Bác Hồ; để trong mỗi hành động, mỗi việc làm của mình đều luôn có Bác, giữ trọn niềm tin vào Đảng, quyết tâm xây dựng buôn làng giàu đẹp, vững bước vào “kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”.


Thủy chung, son sắt thực hiện lời Bác Hồ dạy


Trong bức thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam họp tại Pleiku, ngày 19-4-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “… Ðồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Ðê, Xơ Ðăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau. Vậy nên, tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta… Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt…”.


Bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tầm vóc, tư duy nhìn xa, sâu rộng của Bác về vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc, công tác dân tộc của Đảng ta. Bức thư ngắn gọn, lời thư mộc mạc, gần gũi, dễ hiểu nhưng chứa đựng vô vàn tình yêu thương, tình đoàn kết dân tộc, là ngọn đuốc soi đường làm nên sức mạnh lòng dân trong suốt gần 80 năm qua. Người bày tỏ tình cảm tha thiết đối với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, vạch ra những quan điểm rất mới, rất cơ bản của Đảng và Nhà nước ta đối với đồng bào các dân tộc thiểu số; những nguyên tắc để củng cố và phát triển mối quan hệ anh em ruột thịt giữa các dân tộc và trách nhiệm của các dân tộc đối với đất nước, với Chính phủ, nhất là vào thời điểm Tổ quốc bị lâm nguy.


Thực hiện lời dạy của Người, ngay sau Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam, các đại biểu nhanh chóng trở về các buôn, làng, vận động quần chúng, tổ chức các lễ hội cộng đồng, ăn thề theo phong tục, bày tỏ niềm tin tuyệt đối, thủy chung, son sắt của đồng bào vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ; quyết tâm thực hiện đoàn kết các dân tộc, đoàn kết giữa người Kinh và người Thượng, sát cánh cùng nhau chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, mặc dù đói cơm, lạt muối, ăn lá, măng rừng vô cùng gian khổ nhưng hàng vạn đồng bào các dân tộc Tây Nguyên hăng hái gia nhập Quân đội cách mạng, tham gia du kích, xây dựng làng kháng chiến hoặc xung phong ra chiến trường, cầm súng bảo vệ buôn, làng.


Trong hai cuộc kháng chiến, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên phát huy truyền thống đoàn kết, kiên cường, bất khuất, kề vai, sát cánh, anh dũng cầm súng chiến đấu chống giặc, lập nên những chiến công vang dội, cống hiến cho đất nước những người con ưu tú, xả thân vì Tổ quốc và vun đắp cho mối tình đoàn kết, keo sơn giữa các dân tộc. Tiêu biểu như các anh hùng: Đinh Núp (dân tộc Ba Na), Kpă Klơng, Kpă Ó (dân tộc Gia Rai), Y Buông, A Tranh (dân tộc Xơ Đăng), A Mét (dân tộc Giẻ Triêng), N’Trang Lơng (dân tộc M’Nông) hoặc các vị cách mạng tiền bối tiêu biểu như: Y Ngông Niê Kđăm, Y Bih Alêô (dân tộc Ê Đê), Nay Đer (dân tộc Gia Rai), Bi Năng Tắc (dân tộc Ra Glai), Điểu Ong (dân tộc Xtiêng)… Cùng với đó, hàng vạn đồng bào, chiến sĩ trên mọi miền đất nước đã ngã xuống trên mảnh đất Tây Nguyên để đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.


Ngày 30-11-1968, trong Điện gửi đồng bào, chiến sĩ Tây Nguyên, Bác Hồ khen ngợi: “Quân và dân Tây Nguyên, già, trẻ, gái, trai, Kinh, Thượng đoàn kết một lòng, luôn luôn nêu cao truyền thống anh hùng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thi đua giết giặc, lập công, giữ gìn buôn rẫy, thu được những thành tích to lớn, cùng đồng bào cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Người căn dặn: “Ðồng bào và chiến sĩ Tây Nguyên đã đoàn kết càng phải đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, cố gắng không ngừng, phát huy mạnh mẽ thắng lợi đã giành được, luôn luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của địch, ra sức củng cố và phát triển vùng giải phóng và phục vụ tiền tuyến”.


Thực hiện lời dạy của Bác Hồ, trong mọi giai đoạn của cách mạng, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên luôn phấn đấu kiên cường, bền bỉ, kề vai sát cánh, đấu tranh cho độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc; cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất, làm nên những kỳ tích anh hùng, hiển hách, làm cho Tây Nguyên có cuộc sống bình yên và ngày càng tươi đẹp. Điều đó được khẳng định trong phát biểu của Tổng Bí thư Lê Duẩn tại cuộc mít-tinh lớn ở Tây Nguyên ngày 11-4-1978, tổ chức tại TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk: “Khi còn sống, Bác Hồ vô cùng nhớ Tây Nguyên. Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc và Nhân dân cả nước đánh giá cao sự hy sinh vô bờ bến và lòng dũng cảm tuyệt vời của đồng bào Tây Nguyên. Tổ quốc ta, Nhân dân ta và các thế hệ mai sau đời đời nhớ ơn các liệt sỹ từ mọi miền đất nước đã ngã xuống trên chiến trường Tây Nguyên, mãi mãi ghi nhớ công lao của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã cùng cả nước viết nên những trang sử chói ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam”.


Đi lên cùng cả nước


Sau ngày đất nước thống nhất, tiếp tục thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước có sự đầu tư lớn cả về sức người, sức của; sự chia sẻ, hỗ trợ kịp thời của đồng bào cả nước, tập trung khai thác vùng đất giàu truyền thống cách mạng; giàu tiềm năng, thế mạnh, đầu tư xây dựng để Tây Nguyên phát triển, vững bước đi lên cùng cả nước.


Trong 5 năm đầu thế kỷ XXI (2001-2005), mặc dù các thế lực thù địch liên tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, gây ra 2 cuộc biểu tình, bạo loạn (tháng 2-2001 và tháng 4-2004), hòng làm cho Tây Nguyên khó khăn, bất ổn. Nhưng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là từ khi có Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 18-1-2002 của Bộ Chính trị “về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên”, tình hình kinh tế - xã hội khu vực Tây Nguyên tiếp tục ổn định và phát triển. Cuộc sống của đồng bào chuyển biến tích cực, không còn tình trạng thiếu đói, ốm đau, bệnh tật không có thuốc chữa như trước, từng bước hạn chế du canh, du cư, phá rừng làm nương rẫy... Hàng nghìn buôn, làng “thay da đổi thịt”; đời sống tinh thần, bản sắc văn hóa ngày càng phong phú, diện mạo nông thôn ngày càng khởi sắc.


Khắc ghi và thực hiện lời dạy của Bác Hồ, tại nhiều buôn, làng ở Tây Nguyên cứ vào mỗi sáng thứ hai hằng tuần, bất kể ngày nắng cũng như ngày mưa, không ai bảo ai, bà con lại tập trung ở nhà rông để chào cờ với ảnh Bác Hồ được đặt ở nơi trang nghiêm nhất. Với đồng bào, đi chào cờ là để thể hiện lòng yêu Tổ quốc và sự kính yêu đối với Bác Hồ. Sau mỗi buổi chào cờ, mọi người có dịp trao đổi về những điều hay, lẽ phải, kinh nghiệm làm ăn. Cũng nhờ vậy, đời sống của bà con được cải thiện, nhiều gia đình có của ăn, của để. Một người con dân tộc Gia Rai là bà Hơ Duyên, Trưởng Đoàn Nghệ nhân huyện Đắk Pơ, tỉnh Gia Lai luôn ghi nhớ lời Bác Hồ dạy đồng bào là phải đoàn kết, phải chăm lo lao động, sản xuất để có cái ăn, cái mặc, bảo đảm cuộc sống, sinh hoạt của người dân; ngoài sự đoàn kết, gắn bó trong buôn, làng, phải biết đoàn kết với các dân tộc anh em trong đất nước mình.


Sau 22 năm thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 18-1-2002 của Bộ Chính trị, Tây Nguyên đã có sự phát triển ngoạn mục. Tăng trưởng bình quân của vùng Tây Nguyên đạt 6,55%/năm; tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đầu người năm 2020 đạt 55,6 triệu đồng, gấp 1,4 lần so với năm 2016. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng dần tỷ trọng công nghiệp - xây dựng - dịch vụ. Tỷ trọng các ngành nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ, thuế trợ cấp sản phẩm năm 2020 tương ứng là: 33,51%, 21%, 40,83% và 14,66%.


Năm 2023, năm đầu thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 6-10-2022 của Bộ Chính trị “về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, khu vực Tây Nguyên có bước phát triển mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng của các tỉnh trong khu vực đạt từ 7,6% đến trên 12%, cao hơn bình quân chung của cả nước.


Có thể nhận thấy, vấn đề cấp bách của Tây Nguyên là giao thông. Vì vậy, trong nhiều năm qua, Nhà nước huy động mọi nguồn lực nhằm phát triển mạng lưới giao thông khu vực. Hiện nay, đường bộ toàn vùng có độ dài gần 40.000km đã kết nối các tỉnh Tây Nguyên, mở rộng cơ hội giao thương với các trung tâm lớn cả nước và các nước trong khu vực. Trong đó, các quốc lộ qua Tây Nguyên có tổng chiều dài 2.517km; đường liên tỉnh gần 2.035km và hệ thống giao thông liên cửa khẩu đã nối Tây Nguyên với Căm-pu-chia và Lào, qua các cửa khẩu quốc tế: Đắk Ruê (Đắk Lắk), Lệ Thanh (Gia Lai), Bờ Y (Kon Tum). Đường Hồ Chí Minh đi qua các tỉnh Tây Nguyên làm thay đổi diện mạo những buôn, làng trước đây là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới được kết nối thuận tiện, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân.


Vận hội để bứt phá, phát triển bền vững, xứng tầm


Tây Nguyên có diện tích tự nhiên trên 54.600km2, chiếm 1/6 diện tích cả nước, gồm 5 tỉnh: Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông, Lâm Đồng với dân số hiện nay gần 6 triệu người, trong đó trên 2,2 triệu là đồng bào các dân tộc thiểu số; có đường biên giới dài trên 600km giáp với Lào và Căm-pu-chia; có vị trí địa lý, kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái đa dạng, với rừng đại ngàn có tổng diện tích hơn 2,5 triệu héc-ta, chiếm 17,5% diện tích rừng cả nước, được xem như là “mái nhà” của Đông Dương, có chức năng phòng hộ, đồng thời là địa bàn chiến lược phòng thủ quan trọng. Đây cũng là nơi có đông thành phần dân tộc nhất nước ta và là nơi duy nhất có đủ các nhóm ngôn ngữ - dân tộc của Việt Nam.


Để đạt mục tiêu xây dựng Tây Nguyên giàu về kinh tế, vững về chính trị, mạnh về quốc phòng - an ninh, giàu bản sắc văn hóa, tiến tới trở thành vùng kinh tế động lực của cả nước, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp cơ bản sau:


Thứ nhất, tập trung phát triển kinh tế, trọng tâm là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa.


Đẩy mạnh phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo; khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình và kinh tế trang trại; phát huy vai trò của các nông, lâm trường, các doanh nghiệp nhà nước để phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số. Phát triển toàn diện nông thôn, đưa nông thôn Tây Nguyên ra khỏi tình trạng lạc hậu, xây dựng vững chắc mô hình: “Buôn, làng no đủ, an toàn, vững mạnh”. Từng bước tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ; giảm dần tỷ trọng ngành nông - lâm, ngư nghiệp trong GDP nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế là nhiệm vụ hàng đầu, có tính chiến lược trước mắt và lâu dài đối với phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên.


Thứ hai, đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo.


Nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền để đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên có nhận thức đúng đắn về vai trò của giáo dục - đào tạo đối với công tác xóa đói, giảm nghèo và nâng cao tri thức, chất lượng cuộc sống. Đồng thời, tập trung đầu tư nguồn lực kiên cố hóa, chuẩn hóa cơ sở vật chất trường, lớp ở tất cả các cấp học, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, nhà giáo phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục. Nâng số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên là người dân tộc thiểu số ở các cấp quản lý giáo dục và trong các cơ sở giáo dục; làm tốt công tác cử tuyển; gắn đào tạo với sử dụng, bảo đảm đúng số lượng, cơ cấu, ngành, nghề, trình độ, chức danh theo địa chỉ, yêu cầu công tác.


Thứ ba, bảo đảm an sinh xã hội; giữ gìn, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa.


Tập trung cải thiện, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ. Thực hiện có hiệu quả, thực chất chương trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, nhất là chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở, đất ở; đồng bào được dùng nước sạch, được chăm sóc sức khỏe ban đầu; khống chế và tiến tới loại trừ các dịch bệnh thường gặp như: sốt rét, lao, bướu cổ và thanh toán bệnh bại liệt trẻ em. Phát triển các tổ chức và xây dựng công trình khoa học, phục vụ công tác nghiên cứu, giữ gìn bản sắc, bảo tồn các di sản văn hóa đặc trưng, đặc hữu của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên; xóa bỏ các hủ tục mê tín, lạc hậu, xây dựng đời sống văn hóa tại các buôn, làng.


Thứ tư, tăng cường quốc phòng - an ninh; xây dựng, củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”.


Đây là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh trên địa bàn chiến lược này. Trong đó, chú trọng giải quyết các mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh; giữa đấu tranh bảo vệ chủ quyền với giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ, “thế trận lòng dân” vững chắc, chú trọng các địa bàn trọng điểm, kiên quyết không để xảy ra các “điểm nóng” về an ninh, trật tự; giữ vững sự bình yên của buôn, làng.


Thứ năm, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh.


Tiếp tục xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở thực sự vững mạnh, gần dân, sát dân, hoạt động ngày càng chất lượng, hiệu quả, động viên được sức mạnh của quần chúng nhân dân trong phát triển sản xuất, xây dựng buôn, làng, chủ động giải quyết những vấn đề phát sinh từ cơ sở. Từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức; phấn đấu xóa triệt để tình trạng buôn, làng “trắng” đảng viên và “trắng” tổ chức đảng, nhất là trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tập trung phát triển, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, thực sự là hạt nhân đoàn kết, lãnh đạo hệ thống chính trị ở cơ sở. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, tạo nền tảng vững chắc cho ổn định và phát triển.


Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên giữ trọn niềm tin son sắt với Đảng và Bác Hồ kính yêu; một lòng, một dạ đoàn kết bên nhau, giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết tâm phấn đấu thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo với khu vực miền xuôi, làm cho buôn, làng ngày càng giàu đẹp, cùng cả nước vững bước vào kỷ nguyên mới./.


Xuân Hiên

Thứ Ba, 4 tháng 2, 2025

VIỆT NAM LUÔN TÔN TRỌNG VÀ BẢO ĐẢM TỐT NHẤT QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO

 

Ảnh: TTXVN

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Thực tiễn những năm qua cho thấy, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam luôn được quan tâm, chăm lo và hiện thực hóa trên thực tiễn rất phong phú, sinh động. Vấn đề này thể hiện cụ thể ở việc các tổ chức tôn giáo được pháp luật công nhận xây dựng và thực hiện đường hướng hành đạo phù hợp với văn hóa truyền thống, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc trong công cuộc đổi mới của đất nước; số lượng chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo không ngừng gia tăng; các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo được thực hiện ngày càng phong phú, quy mô lớn hơn, thu hút đông đảo tín đồ và người dân tham gia, góp phần tích cực vào nâng cao đời sống tinh thần của đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo.


Trong những năm qua, các tổ chức tôn giáo tham gia vào đời sống chính trị xã hội rất phong phú. Cụ thể, Quốc hội khóa XV, có 5 vị chức sắc trúng cử đại biểu; 88 chức sắc, chức việc và 35 tín đồ các tôn giáo trúng cử đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh; 225 chức sắc, chức việc, nhà tu hành và 246 tín đồ trúng cử đại biểu hội đồng nhân dân cấp huyện; 646 chức sắc, chức việc, nhà tu hành và trên 5.000 tín đồ trúng cử đại biểu hội đồng nhân dân cấp xã nhiệm kỳ 2021 - 2026, là thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và tích cực tham gia các hội, đoàn thể khác. Nhiều tổ chức tôn giáo tích cực tham gia thực hiện các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, góp sức người, sức của để xây dựng quê hương, tích cực tham gia hoạt động an sinh xã hội ở các địa phương. Các tôn giáo luôn được tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động; các cơ sở thờ tự liên tục được trùng tu, tôn tạo ngày càng khang trang.


Mặt khác, không khí đón mừng Thiên Chúa Giáng sinh luôn diễn ra rộn ràng tại các nhà thờ xứ đạo, họ đạo và khu dân cư tại nhiều địa phương trên cả nước với sự tham gia của đông đảo tín đồ và người dân. Tại Hà Nội, Nhà thờ Lớn được trang hoàng lung linh, lộng lẫy chào đón Giáng sinh 2024, cây thông Noel ở Nhà thờ Lớn được đánh giá là cây thông lớn nhất ở Hà Nội. Tiếp đó, nhà thờ đá Phát Diệm ở tỉnh Ninh Bình luôn là một trong những địa điểm thu hút đông người dân đến vui chơi nhân dịp Giáng sinh với sự trang hoàng lung linh, rực rỡ. Ở Việt Nam lễ Giáng sinh đã vượt ra khỏi giáo đường của đạo Công giáo. Lễ Noel dần dần trở thành một sinh hoạt cộng đồng. 


Với thực tiễn sinh động đó là minh chứng rõ ràng để đấu tranh phản bác có sức thuyết phục với những luận điệu sai trái, phản động của các thế lực thù địch khi cho rằng, Việt Nam “đàn áp tôn giáo”. Nhân dân Việt Nam luôn nêu cao cảnh giác cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện tốt các chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiên quyết đấu tranh loại bỏ những âm mưu, thủ đoạn xấu độc nhằm kích động gây rối, xuyên tạc tình hình tôn giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc; không để chúng tác động đến đời sống tinh thần của người dân đất Việt./.


Sao Sáng

95 MÙA XUÂN, ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẤT NƯỚC NGÀY CÀNG PHÁT TRIỂN VÀ CHUẨN BỊ VÀO KỶ NGUYÊN MỚI

 


Năm nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản có ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng tháng 9-1960 đã quyết định lấy ngày 3-2 hằng năm là ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.


Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những kỳ tích vĩ đại trong thế kỷ XX và 25 năm đầu thế kỷ XXI. Đó là thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, lật đổ ách thống trị gần 100 năm của thực dân Pháp và chế độ phong kiến, lập lên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; thắng lợi của cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp với quyết tâm “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”; thắng lợi của cuộc kháng chiến 21 năm chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo gần 40 năm qua, đã vượt qua mọi khó khăn, bao vây cấm vận, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đứng vững và tiếp tục đi lên trong cơn “động đất chính trị” trên thế giới khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ (1989-1991) và làm cho toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới lâm vào thoái trào. Qua gần 40 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng và sự nỗ lực của toàn hệ thống chính trị cũng như của toàn dân, đất nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Từ một nước làm không đủ ăn, thu không đủ chi, xuất không đủ nhập, Đảng lãnh đạo đất nước thoát khỏi nhóm nước nghèo, vào nhóm nước đang phát triển và phấn đấu đến năm 2030 là nước phát triển có thu nhập trung bình cao.


Những kỳ tích vĩ đại nêu trên giành được qua 95 năm là minh chứng hùng hồn, thuyết phục về sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và khát vọng đưa nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc và mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức thi đua để hiện thực hóa khát vọng cao cả của Đảng và toàn dân tộc. Với phương châm: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ thường xuyên, trọng yếu”, Đảng ta không ngừng đổi mới để đáp ứng những thực tiễn đòi hỏi phù hợp với tình hình quốc tế và trong nước. Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tổ chức được đặc biệt quan tâm, triển khai tích cực và đạt nhiều hiệu quả qua Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII), Kết luận số 21-KL/TW của hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII), Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm đang từng bước đi vào cuộc sống. Đáng chú ý, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được triển khai quyết liệt, không ngừng nghỉ và thu được nhiều kết quả rõ nét, tăng thêm niềm tin của nhân dân với Đảng.


Kinh tế - xã hội nước ta năm 2024 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, biến động nhanh, khó lường và tính bất ổn cao; lạm phát của nhiều nước vẫn chưa giảm đáng kể. Cạnh tranh chiến lược, địa chính trị giữa các nước lớn, xung đột quân sự giữa Nga và Ukraine, giữa Hamas và Israel chưa có dấu hiệu kết thúc; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu... làm gia tăng rủi ro đến thị trường tài chính, tiền tệ, an ninh năng lượng và lương thực trên phạm vi toàn cầu. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, GDP năm 2024 của Việt Nam tăng trên 7%; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.700 USD. Về văn hóa, thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24-11-2021, thời gian qua, các hoạt động văn hóa, văn nghệ đã có nhiều khởi sắc, ngày càng xứng đáng là nền tảng tinh thần của xã hội. Với những thành tựu vĩ đại và có ý nghĩa lịch sử do Đảng lãnh đạo đã đạt, chúng ta có niềm tin vững chắc vào sự khẳng định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lúc sinh thời: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế cũng như uy tín quốc tế như hiện nay”.


Hướng tới kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: “Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc phát triển giàu mạnh và thịnh vượng là Đại hội XIV của Đảng”. Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại. Đó cũng là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao, khơi dậy hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước, kết hợp chặt chẽ sức mạnh đất nước với sức mạnh thời đại.


Để hướng tới Đại hội XIV của Đảng và chuẩn bị cho đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc phát triển giàu mạnh và thịnh vượng, hiện nay Đảng ta đang lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị tiến hành cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy. Đảng khẳng định: Việc đẩy mạnh tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị không chỉ là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay mà còn là đột phá mang tính chất chiến lược để đưa đất nước ta tiến xa hơn trên con đường phát triển toàn diện. Có thể nói, quan điểm của Tổng Bí thư Tô Lâm về “Tinh - gọn - mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả” đã trở thành sự chỉ đạo quyết liệt cho việc tổ chức bộ máy phù hợp với yêu cầu và những đòi hỏi bức thiết của thời đại. Đó là nguyên tắc quan trọng và tiền đề cho việc phát triển hơn nữa tri thức, công nghệ, lao động, nguồn vốn để không ngừng tạo ra của cải phục vụ xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.


Từ những vấn đề nêu trên, có thể thấy Đảng ta quyết định thời điểm Đại hội XIV đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc phát triển giàu mạnh và thịnh vượng là hoàn toàn đúng đắn, bởi lẽ đây là thời điểm hội tụ tổng hòa các lợi thế, sức mạnh tiếp sau kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội và kỷ nguyên đổi mới. Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Việc tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị là vấn đề cấp bách, bắt buộc phải làm, càng làm sớm càng có lợi cho dân, cho nước, phải coi đây là cuộc cách mạng về tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị”. Chúng ta phải thấu hiểu một điều, cuộc cách mạng nào cũng có sự hy sinh, có sự đau đớn. Cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị không phải ngoại lệ. Nhưng không có sự thay đổi sẽ không có sự phát triển. Chúng ta đang hướng đến sự thay đổi để mọi thứ đều tốt đẹp hơn. Tinh gọn bộ máy - đó là mệnh lệnh của cuộc sống!


Một mùa xuân lại về. Chúng ta tin tưởng rằng, với truyền thống và bản chất tốt đẹp của Đảng ta, với quyết tâm chính trị rất cao của toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị, lại được nhân dân đặt nhiều kỳ vọng, hưởng ứng, đồng tình, ủng hộ, nhất định Đảng ta sẽ thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, phát triển giàu mạnh và thịnh vượng, sánh vai với các cường quốc năm châu như di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh!./.


Biên Cương

VIỆC TINH GỌN BỘ MÁY CỦA VIỆT NAM SẼ LÀ XU THẾ CỦA THỜI KỲ HIỆN ĐẠI HÓA

 


Việc sắp xếp và tinh gọn bộ máy, tổ chức nhà nước là một chủ trương quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam, đóng vai trò khởi đầu và là công tác chuẩn bị cho quá trình cải cách hành chính.


Sắp xếp, tinh gọn bộ máy Chính phủ: Việc rất khó nhưng khó mấy cũng phải làmTháng 2/2025, Trung ương, Quốc hội sẽ họp bàn về tinh gọn bộ máy


hình mẫu để các địa phương quan sát, học tập và triển khai, tạo động lực quan trọng giúp Việt Nam tiếp tục dẫn dắt công cuộc Đổi mới, bảo đảm tốc độ phát triển và bước tiến vững chắc trong những năm tới.


Trên đây là những nhận định của lãnh đạo cấp cao và nhà quản lý Lào trong cuộc phỏng vấn độc quyền với phóng viên tại Vientiane.


Trong cuộc phỏng vấn, ông Bounthong Chitmany - Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào - cho rằng việc chỉnh đốn, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, hạn chế hiện tượng tiêu cực trong đội ngũ đảng viên, cũng như tiếp tục hoàn thiện, cải cách bộ máy tổ chức của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả đã phản ánh đúng bản chất của nền hành chính phục vụ nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển và hợp tác với nước ngoài một cách chủ động, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiệu lực và nghiêm minh... Đó sẽ là yếu tố, là động lực để tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Việt Nam đạt được tốc độ và bước tiến vững chắc trong những năm tới.


Ông Bounthong Chitmany cũng cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và xây dựng thành công nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất hoàn toàn đất nước; tiến hành công cuộc Đổi mới và tiếp tục bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc - dưới sự lãnh đạo của Đảng, hoàn thành thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ và văn minh; phấn đấu tổ chức thực hiện các mục tiêu chiến lược đến năm 2030 Việt Nam trở thành nước đang phát triển có nền công nghiệp hiện đại và thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 Việt Nam sẽ trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển có thu nhập cao, mọi người dân đều có sự phát triển toàn diện. Đây là mục tiêu phấn đấu cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời là lý tưởng, là trách nhiệm chính trị cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc biến mong ước của nhân dân Việt Nam trở thành hiện thực.


Ông Bounthong Chitmany bày tỏ tin tưởng cho dù Việt Nam có phải đối mặt với muôn vàn khó khăn và thách thức, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã rèn luyện qua nhiều thử thách, kết hợp với đường lối, chính sách đúng đắn, nhất quán của Đảng, tinh thần yêu nước cao cả, tình đoàn kết thống nhất của nhân dân Việt Nam, sức mạnh của đội ngũ cán bộ, nguồn nhân lực chất lượng và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, Việt Nam sẽ tiến bước vững chắc tới các mục tiêu đề ra.


Trong khi đó, Tiến sỹ Daosavanh Kheuamixay, Phó Giám đốc Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Lào, người từng có thời gian dài sinh sống, học tập và nghiên cứu tại Việt Nam, cho rằng từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất quan tâm, coi trọng và quyết liệt trong công tác phòng, chống tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác trong Đảng.


Ngay cả với các cán bộ cấp cao, nếu vi phạm quy định, kỷ luật của Đảng thì cũng bị xử lý một cách công khai, công bằng. Đây là yếu tố quan trọng giúp nâng cao vị thế, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, nâng cao niềm tin của người dân với Đảng và được người dân Việt Nam ủng hộ rộng rãi.


Tiến sỹ Daosavanh Kheuamixay nói rõ công cuộc phòng, chống tham nhũng của Việt Nam là nhằm chỉnh đốn Đảng, giúp xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.


Công cuộc chống tham nhũng của Việt Nam đã cho thấy sự nghiêm minh trong việc xử lý kỷ luật của Đảng và thực thi Hiến pháp, pháp luật. Ngoài ra, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng có quyết tâm rất cao trong việc sắp xếp và tinh gọn bộ máy tổ chức, qua đó giúp nâng cao hiệu năng, hiệu lực và hiệu quả.


Cũng theo lời Tiến sỹ Daosavanh Kheuamixay, việc tinh gọn bộ máy nhà nước là xu thế của thời kỳ hiện đại hóa. Ông tin tưởng rằng Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ thành công trong việc cải cách lần này.


Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp hiện nay, cạnh tranh địa chính trị giữa các nước lớn sẽ ảnh hưởng đến các nước đang phát triển, qua đó tạo ra những thách thức không nhỏ cho Việt Nam.


Dù vậy, Tiến sỹ Daosavanh Kheuamixay luôn tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo sáng suốt và đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, kết hợp với sự giám sát và kiểm tra của Quốc hội, mặt trận, cộng thêm quyết tâm chính trị cao, tinh thần đoàn kết, cùng các nỗ lực phấn đấu, Việt Nam sẽ thực hiện thành công mục tiêu tinh gọn bộ máy tổ chức, góp phần xây dựng bộ máy của hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển thịnh vượng./.


Theo TTXVN

Thứ Hai, 3 tháng 2, 2025

THỦ TƯỚNG: CẢ NƯỚC CÓ TẾT VÀ NHÂN DÂN AI CŨNG CÓ TẾT 

 


Chiều 3/2, ngày đầu tiên làm việc sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì họp Thường trực Chính phủ với các bộ, ngành đánh giá tình hình Tết và triển khai nhiệm vụ trọng tâm sau Tết.


Dự hội nghị có các Phó Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ, lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ.


Các báo cáo, ý kiến tại cuộc họp đánh giá, để chuẩn bị tốt các điều kiện phục vụ nhân dân đón Tết Nguyên đán Ất Tỵ năm 2025, các bộ, cơ quan, địa phương, các lực lượng chức năng đã tổ chức thực hiện nghiêm túc các chỉ thị của Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức Tết.


Các địa phương, bộ, ngành quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; triển khai đầy đủ, kịp thời các chính sách an sinh xã hội; chú trọng các hoạt động tri ân, nghĩa tình đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng.


Theo các báo cáo, sức mua hàng hóa dịp Tết ước tăng 10% so với tháng thường và so với Tết năm 2024. Trong dịp Tết, toàn quốc xảy ra 411 vụ tai nạn giao thông, làm chết 191 người, 354 người bị thương, giảm từ 38% đến 40% số vụ, số người chết và bị thương do tai nạn giao thông so với cùng kỳ Tết Nguyên đán Giáp Thìn năm 2024.


Hoạt động Tết Nguyên đán gắn với các hoạt động kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930-3/2/2025). Các hoạt động văn hóa, lễ hội diễn ra sôi động, được quản lý và tổ chức đúng quy định, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo đảm nếp sống văn minh. Hoạt động du lịch tiếp tục khởi sắc, cả nước phục vụ 12,5 triệu lượt khách nội địa.


Phát biểu tại cuộc họp được tổ chức đúng ngày kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, Đảng ta sau 95 năm gánh vác sứ mệnh lịch sử đã đưa đất nước ta từ lầm than đến giành độc lập, tự do, chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới thành công, đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.


Thủ tướng nêu rõ: Sau đại dịch COVID-19, tình hình khủng hoảng trên thế giới với các vấn đề liên quan tới chiến tranh và hòa bình, liên quan tới môi trường, liên quan tới hòa bình, hợp tác và phát triển, chúng ta càng khẳng định đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên giàu mạnh, thịnh vượng, văn minh, nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc.


Nhân dịp kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng, chúng ta tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; trong đó có việc Đảng bộ Chính phủ được thành lập với khoảng 270.000 đảng viên, là Đảng bộ Chính phủ đầu tiên sau 95 năm thành lập Đảng.


Thủ tướng nêu rõ, Đảng ta không có mục đích nào khác là mang lại độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc, ấm no cho nhân dân và đã lãnh đạo nhân dân ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.


"Chúc mừng Đảng ta 95 năm, chúc mừng Xuân, mừng năm mới, mừng nhân dân phấn khởi đón Tết vui tươi, sum vầy, nghĩa tình, đầm ấm, lành mạnh, tiết kiệm và cơ bản an toàn, không khí rất "Tết" với thiên thời, địa lợi, nhân hòa, "trong ấm ngoài êm". Nhà nhà có Tết, người người có Tết, cả nước có Tết và nhân dân ai cũng có Tết", Thủ tướng phát biểu.


Điểm lại tình hình trong dịp Tết năm nay với một số nét khác biệt so với các năm trước, Thủ tướng nhấn mạnh công tác phòng chống dịch bệnh, khám chữa bệnh cho nhân dân, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm tương đối tốt. An sinh xã hội được bảo đảm, lương thưởng Tết cho người lao động tăng lên so với năm ngoái và những năm trước đây.


63 tỉnh, thành phố, các cấp, các ngành đã triển khai các hoạt động, sự kiện chăm lo an sinh xã hội cho người dân như: Tết nhân ái, Tết sum vầy - Xuân chia sẻ, Ngày hội công nhân, Chợ Tết công đoàn, Xuân Biên phòng ấm lòng dân bản…


Đặc biệt, cả nước đã hỗ trợ, tặng quà 13,5 triệu lượt đối tượng (chiếm hơn 13% dân số cả nước) với tổng kinh phí gần 8.000 tỷ đồng và 3,8 triệu lượt đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi, trẻ em nghèo có hoàn cảnh có khăn được hỗ trợ, tặng quà Tết với tổng kinh phí gần 2.600 tỷ đồng.


Trong đó, trên 1,1 triệu lượt người cao tuổi được chúc thọ, tặng quà với tổng giá trị gần 700 tỷ đồng. Trên 445.000 lượt trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được thăm hỏi, tặng quà với tổng giá trị trên 196 tỷ đồng. Trên 1,48 triệu lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo được hỗ trợ, tặng quà với tổng giá trị gần 800 tỷ đồng. Trên 1,3 triệu lượt đối tượng bảo trợ xã hội được tặng quà với tổng giá trị gần 1.000 tỷ đồng.


Tổng các nguồn kinh phí hỗ trợ, tặng quà cho người có công với cách mạng và thân nhân người có công khoảng 2.800 tỷ đồng (tăng 59 tỷ đồng so với Tết Nguyên đán Giáp Thìn năm 2024).


Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 5 quyết định hỗ trợ gần 7.000 tấn gạo cho 10 tỉnh, hỗ trợ 5.530 tỷ đồng, trên 1.000 tấn gạo, 629 tấn hạt giống cây trồng, 90.000 lít hoá chất khử trùng trong chăn nuôi, thuỷ sản cho các tỉnh.


Với tinh thần ai có gì góp nấy, ai có công góp công, ai có của góp của, ai có nhiều góp nhiều, ai có ít góp ít, nhiều địa phương tích cực triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát; nhiều người dân được đón Tết trong ngôi nhà mới. Cả nước đã hỗ trợ gần 7.000 căn nhà ở cho người có công với cách mạng (khánh thành 3.166 căn, khởi công gần 4.000 căn); hỗ trợ 35.466 căn nhà ở thuộc Chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát (khánh thành 18.841 căn, khởi công 16.625 căn). Việc tái thiết 3 khu dân cư Làng Nủ, Nậm Tông và Kho Vàng tại Lào Cai được hoàn thành đúng cam kết.


Tiền lương bình quân của người lao động năm 2024 đạt gần 9 triệu đồng/tháng, tăng so với năm 2023. Mức thưởng bình quân Tết Nguyên đán Ất Tỵ là 7,72 triệu đồng/người, tăng 13% so với thưởng dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn.


Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, các cấp công đoàn đã tổ chức thăm hỏi, chúc Tết cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên, người lao động có hoàn cảnh khó khăn, cán bộ, công nhân viên làm nhiệm vụ trong những ngày Tết. Các cơ quan, đơn vị quân đội, công an tổ chức nhiều chương trình thiết thực cho nhân dân đón Tết, nhất là tại vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; giúp đỡ người già, người cơ nhỡ...


Đặc biệt, tình dân tộc, nghĩa đồng bào được phát huy mạnh mẽ trong dịp Tết và càng ngày càng rõ nét, như những việc tử tế với các suất ăn 0 đồng, chuyến xe ôm 0 đồng, đánh giày 0 đồng…; tạo nên những hình ảnh tốt đẹp, xúc động, lan tỏa tích cực trong cộng đồng.


Tình hình thị trường, giá cả hàng hóa tương đối ổn định trong dịp Tết, hàng hoá thị trường Tết phong phú, đa dạng, giá cả ổn định, nguồn cung các mặt hàng thiết yếu phục vụ nhân dân được bảo đảm. Giao thông, vận tải và thông tin liên lạc đươc thông suốt.


Công tác tổ chức các lễ hội truyền thống, hoạt động văn hóa, văn nghệ và thông tin được coi trọng, tổ chức rộng khắp, hoạt động truyền thông phong phú với chủ đề chính là mừng Đảng, mừng Xuân, mừng đất nước..., đặc biệt là các yếu tố văn hóa truyền thống cốt lõi của dân tộc được khai thác mạnh mẽ, công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí khởi sắc, người dân được thụ hưởng các giá trị văn hóa nhiều hơn.


Du lịch có nhiều khởi sắc, nhất là du lịch quốc tế, nhiều địa phương đạt doanh thu cao như Quảng Ninh, TP Hồ Chí Minh, Huế, Thanh Hóa, Khánh Hòa, Bà Rịa - Vũng Tàu, Kiên Giang (Phú Quốc)…


Chủ trương tiết kiệm, chống lãng phí của Đảng và Nhà nước được chấp hành nghiêm; việc thực hiện các quy định pháp luật về quản lý sử dụng tài sản công cơ bản đạt yêu cầu.


Công tác an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, vệ sinh môi trường được kiểm soát tốt hơn; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Công tác đối ngoại được triển khai chủ động, tích cực.


Số vụ tai nạn giao thông, số người chết, số người bị thương do tai nạn giao thông trong kỳ nghỉ Tết dài 9 ngày đều giảm, cho thấy tính đúng đắn của Nghị định 168. Thủ tướng nhấn mạnh, số người t.ử v.o.n.g, tai nạn giảm, dù chỉ một người cũng là điều rất đáng mừng, không có phần thưởng nào hơn, không có động viên nào hơn bằng điều này.


Tết trồng cây, hoạt động ra quân sản xuất đầu năm được thực hiện tích cực, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Việc thực hiện chế độ trực Tết và thông tin báo cáo cơ bản đầy đủ; kịp thời động viên, khích lệ tinh thần các đơn vị tuyến đầu, trong dịp Tết. Những công việc đột xuất, cấp bách phát sinh được kịp thời chỉ đạo, xử lý.


Thủ tướng đánh giá chung, việc tổ chức chuẩn bị, đón Tết cơ bản đạt các mục tiêu đề ra theo chỉ đạo của Ban Bí thư và Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; tạo khí thế sôi nổi, phấn khởi của cả dân tộc, tạo đà, tạo lực cho cả nước bước vào năm 2025.


Về các nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ cho biết, tới đây Đảng bộ Chính phủ sẽ tổ chức hội nghị đầu tiên để triển khai nhiệm vụ.


Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương thực hiện nghiêm 13 nhóm nhiệm vụ chủ yếu và 67 nhiệm vụ cụ thể cần tập trung triển khai ngay sau Tết.


Cùng với đó, chuẩn bị tốt các nội dung phục vụ kỳ họp Quốc hội sắp tới; tiếp tục hoàn thành các dự án hạ tầng chiến lược đang triển khai và chuẩn bị tốt việc triển khai các dự án hạ tầng lớn thời gian tới như các dự án đường sắt, nhà máy điện hạt nhân…


Ngay sau Tết cũng là mùa lễ hội, Thủ tướng lưu ý, cùng với triển khai các nhiệm vụ thường xuyên phải tổ chức thật tốt để người dân tham gia các lễ hội vui tươi, lành mạnh, an toàn, chống mê tín, dị đoan, lãng phí…


Thủ tướng đề nghị các thành viên Chính phủ tiếp tục cố gắng, phấn đấu với tinh thần tư tưởng phải thông, quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả, làm việc nào ra việc đó, làm việc nào dứt việc đó, đã bàn là phải thông, chỉ bàn làm, không bàn lùi, đã nói là làm, đã cam kết phải thực hiện, mang lại hiệu quả, sản phẩm cụ thể./.


Theo Chính phủ