Tìm kiếm

Thứ Ba, 29 tháng 6, 2021

Tăng cường bảo vệ biên giới và ngăn chặn xuất nhập cảnh trái phép, phòng chống dịch Covid-19

 

 


Chiều 29-6, tại Hà Nội, Ban Thường vụ QUTƯ tổ chức Hội nghị làm việc với Ban Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP về công tác quản lý, bảo vệ biên giới và ngăn chặn xuất, nhập cảnh trái phép, phòng, chống dịch Covid-19.


 Phát biểu tại hội nghị, Thượng tướng Phan Văn Giang biểu dương những kết quả đạt được của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP trong thời gian qua, đặc biệt là trong thực hiện nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19.


Thượng tướng Phan Văn Giang nhấn mạnh, BĐBP không những hoàn thành nhiệm vụ của mình mà còn là điểm tựa, là phên dậu, nòng cốt trong xây dựng hệ thống chính trị địa phương.


Kết luận hội nghị, Thượng tướng Phan Văn Giang chỉ đạo thời gian tới, Đảng ủy BĐBP cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, triển khai nghiêm túc, hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của đảng, Nhà nước và chỉ đạo của QUTƯ, BQP về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và công tác Biên phòng.


Chủ động nắm chắc tình hình trên biên giới, vùng biển, đảo từ sớm, từ xa; kịp thời tham mưu đề xuất với QUTƯ, BQP có chủ trường, đối sách trong xử lý các tình huống, không để bị động bất ngờ; tổ chức quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia, hệ thống dấu hiệu mốc quốc giới.


 Đồng thời, duy trì việc thực hiện pháp luật về biên giới quốc gia, các điều ước quốc tế có liên quan đến chủ quyền, an ninh ở khu vực biên giới vùng biển, đảo; triển khai các kế hoạch nghiệp vụ, siết chặt công tác quản lý, bảo vệ biên giới, kiểm soát cửa khẩu, nhất là đường mòn, lối mở.


Tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, gắn với việc quán triệt triển khai thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị.

SỰ NGHIÊM TRỊ TRONG QĐND VIỆT NAM

 Quân đội Nhân dân Việt Nam có hệ thống các cơ quan điều tra, xét xử riêng biệt, kiện toàn từ khâu điều tra cho đến tố tụng, xét xử và thi hành án. Tất cả các vấn đề liên quan đến quân đội đều sẽ được tiến hành điều tra, truy tố, xét xử theo đúng quy định của pháp luật - không ngoại trừ bất cứ trường hợp nào. 

Vụ việc đau lòng xảy ra dẫn đến thiệt hại về nhân mạng của chiến sỹ trong Quân đội Nhân dân Việt Nam có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, d


o vậy các cơ quan điều tra, tố tụng của quân đội sẽ tiến hành vào cuộc điều tra một cách rõ ràng, theo đúng trình tự pháp luật, trên cơ sở kết quả của các nghiệp vụ giám định pháp y, quá trình tìm bằng chứng, lấy lời khai của nhân chứng. Tuyệt đối sẽ không có bất cứ sự bao che hoặc bỏ qua cho các hành vi vi phạm pháp luật dù là nhỏ nhất. 

Quá trình điều tra có thể sẽ mất thời gian để làm rõ, nhưng chắc chắn rằng pháp luật nghiêm minh sẽ có một câu trả lời thoả đáng, công lý sẽ được thực thi một cách minh bạch, rõ ràng! 

Rất mong mọi người yên tâm, tin tưởng pháp luật, tin tưởng Quân đội, không nghe theo các thuyết âm mưu xuyên tạc của các thế lực thù địch lợi dụng vụ việc để tấn công làm giảm uy tín của Quân đội Nhân dân Việt Nam, làm xấu đi hình ảnh người Bộ đội Cụ Hồ!

CÁI NHÌN ĐA CHIỀU CHO CÁI GỌI LÀ BẠO LỰC TRONG QUÂN ĐỘI




Trong những năm gần đây tình trạng bạo lực trong Quân đội các nước luôn là vấn đề nhạy cảm và được báo chí, nhân dân quan tâm rất lớn. Vậy trước khi bàn về Việt Nam, chúng ta hãy điểm qua các nước khác để có cái nhìn đa chiều hơn về vấn đề này.

Tại Hàn quốc: Lim Tae Hoon là một nhà hoạt động xã hội đồng tính công khai đã cho thấy  Quân đội Hàn Quốc đang đau đầu trước tình trạng bắt nạt, dẫn đến nhiều vụ án mạng, tự sát và xả súng gây chấn động thời gian gần đây. Gần 800 lính nghĩa vụ Hàn Quốc thiệt mạng trong vòng 10 năm qua và rất nhiều người trong số đó chết bởi tình trạng bắt nạt và bạo lực nội bộ.

Tại Mỹ: theo AP trích dẫn nguồn Bộ Quốc phòng Mỹ, tỷ lệ tự sát, bạo lực trong quân đội Mỹ tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó, tỷ lệ tự sát trong binh sĩ Lục quân tăng đến 30%, từ 88 trường hợp lên 114 trường hợp, tỷ lệ trong lực lượng Cảnh vệ tăng 10%. Theo một báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ, năm 2018, có 325 vụ tự tử được ghi nhận trong hàng ngũ các binh sĩ hoạt động của Mỹ, tỷ lệ này tương đương 24,8 vụ trên 100.000 dân, không quá khác biệt với tỷ lệ tự tử ở người trưởng thành tại Mỹ vào năm 2017.

Việt Nam có hành động gì để giảm tự tử, tự sát, bạo lực trong Quân đội. Trong những năm gần đây quân đội ta đã đề ra 1 loạt các biện pháp, các chỉ thị nhằm bảo về quyền của quân nhân. Thông tư 16 của bộ quốc phòng qua các điều:

(Điều 16. Làm nhục, hành hung người chỉ huy hoặc cấp trên; Điều 17. Làm nhục hoặc dùng nhục hình đối với cấp dưới;Điều 18. Làm nhục, hành hung đồng đội) đã thể hiện quan điểm nhất quán và có chế tài rất rõ về việc nghiêm cấm các hành vi bạo lực qua đó đã góp phần làm giảm tình trạng bạo lực mà bất kỳ Quân đội nào cũng mắc phải. Những biện pháp trên khẳng định quân đội chúng ta không bao che cho các hành vi bạo lực. 

Mỗi chúng ta không khỏi bàng hoang, đau lòng, thậm chí hụt hẫng về những vụ việc như thời gian qua. Thế nhưng mọi vấn đề đều cần được nhìn nhận một cách khách quan, trung thực và minh bạch. Tránh tình trạng rơi vào cảm xúc cá nhân mà quy chụp cả một tập thể.

 Luật an ninh mạng năm 2019, Chương III - Phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng gồm 7 Điều nêu quy định về: Phòng ngừa, xử lý thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng; làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; phòng, chống gián điệp mạng; bảo vệ thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng; Phòng, chống hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; phòng, chống tấn công mạng; phòng, chống khủng bố mạng; phòng ngừa, xử lý tình huống nguy hiểm về an ninh mạng; đấu tranh bảo vệ an ninh mạng.

 Do vậy trước khi có kết luận chính thức của pháp luật thì 1 trong 2 bên nếu gây phương hại đến danh dự, uy tín của nhau đều là sai trái và rất dễ đẩy sự việc ngoài tầm kiểm soát. Ông cha ta có câu: "con sâu làm rầu nồi canh" cũng có nghĩa là ám chỉ những cái nhìn thiếu khách quan và đa chiều của những người thiếu chín chắn trong suy nghĩ và hành động. 1 cá nhân, 1 nhóm người dù có vi phạm thì chúng ta cũng không thể quy cho cả tập thể đó không tốt. 

Mong rằng mọi người dân chúng ta hãy tin tưởng vào pháp luật và hãy thật bình tĩnh không để các thành phần xấu phá hoại đi hình ảnh người lính cụ Hồ. Hãy nhìn cái lớn lao hơn phía sau cái chúng ta nhìn thấy. Quân đội với số lượng lớn quân nhân cũng giống như 1 xã hội thu nhỏ và trong các loại quản lý, thì quản lý con người là khó khăn nhất, phức tạp nhất, tiềm ẩn nhiều nguy cơ nhất.

Thứ Hai, 28 tháng 6, 2021

THỦ ĐOẠN "VẤY MỰC" HÌNH ẢNH NGƯỜI CÔNG AN GIÚP DÂN TRONG ĐẠI DỊCH COVI-19

 

Những chiến sĩ Công an dầm mình giữa nắng nóng để hỗ trợ người dân thu hoạch mùa vụ; những chiến sĩ với bộ quân phục ướt sũng mồ hôi trên đồng ruộng để giúp dân gặt lúa hay bữa cơm vội vàng, bát mì tôm đạm bạc ăn vội tại chốt trực... Đó là những hình ảnh bình dị, chân thực, được người dân, báo chí đăng tải lên internet, nay trở thành chủ đề để số đối tượng phản động, chống đối chính trị xuyên tạc, công kích cho rằng đó là “diễn kịch”, “làm màu”.


Đáng tiếc thay, một số bài viết sai sự thật về lực lượng Công an đăng tải lên mạng xã hội lại có một số người hùa theo bình luận, chia sẻ với những ngôn từ phản cảm, gây hiệu ứng xấu trên mạng xã hội trong thời gian qua. 


Những ngày qua, làn sóng thứ 4 của dịch COVID - 19 đã tác động, ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống vật chất, tinh thần của người dân Việt Nam. Từ tháng 4/2021 đến nay, đại dịch COVID - 19 đã xuất hiện ở nhiều địa phương trên cả nước như Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, Nghệ An, Hà Tĩnh, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương… 


Song hành với các lực lượng chống dịch được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ, lực lượng CAND luôn đồng hành, là lực lượng xung kích tuyến đầu trên mặt trận chống dịch bệnh. Lực lượng Công an tại các vùng dịch được huy động tham gia tích cực vào kiểm soát người nhập cảnh từ nước ngoài về, đảm bảo an ninh trật tự tại các khu cách ly, thực hiện công tác hậu cần đảm bảo chỗ ăn ở sinh hoạt tại các khu cách ly và cả tham gia hỗ trợ truy vết…  


Bên cạnh những khó khăn như dịch bệnh lây lan nhanh, số lượng các ca nhiễm nhiều, truy vết nguồn lây từ F0 với các lịch trình phức tạp, thời tiết nắng nóng... thì việc giúp đỡ người dân thu hoạch mùa vụ ở những vùng đang có dịch cũng là một trong những thách thức rất lớn đối với các lực lượng tham gia chống dịch, trong đó có lực lượng CAND. Điển hình như ở Bắc Giang, số lượng ca nhiễm tăng từng ngày, việc truy vết để xác định các ca F1, F2... để tiến hành cách ly y tế là một vấn đề rất khó khăn đối với lực lượng chống dịch. 


Điều khó khăn hơn cả là trong số những người cách ly tập trung và cách ly tại nhà lại là những lao động chính trong gia đình, họ là những người trực tiếp tham gia vào các hoạt động sản xuất tại các xí nghiệp hoặc ở ruộng đồng. Rõ ràng, nếu như khi đến mùa vụ thu hoạch lúa, vải thiều, dưa hấu... mà không kịp thu hoạch, chỉ chậm ít ngày thì tất cả các sản phẩm đó có thể hư hỏng, dẫn đến thiệt hại lớn đến nguồn thu của bà con. 


Nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của bà con khi mùa vụ tới mà không thể ra ngoài thu hoạch được, lực lượng Công an các địa phương đã không quản sự khắc nghiệt của thời tiết, các chiến sĩ xung phong đi giúp dân thu hoạch mùa vụ. Trong đoàn tham gia có cả cán bộ chiến sĩ nữ và có những đồng chí đang có con nhỏ. Thế nhưng, với tinh thần hăng say, nỗ lực vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân, các chiến sĩ đã không khước từ bất kỳ nhiệm vụ nào dù có khó khăn đến mấy. 


Điển hình như, Đoàn Thanh niên Công an huyện Yên Dũng – Bắc Giang đã ra quân thực hiện nhiệm vụ vừa phòng, chống dịch, vừa thực hiện vận chuyển, tiêu thụ và gặt lúa giúp dân. Nhiều huyện ở Bắc Giang, cán bộ, chiến sĩ toả xuống các hộ dân, giúp bà con thu hoạch vải thiều đang vào độ chín, khi mà nhiều người trong gia đình họ đang phải cách ly. Những hình ảnh đó được chính người dân chụp đưa lên mạng xã hội, thể hiện sự trân trọng cán bộ, chiến sĩ Công an đã giúp các gia đình trong khó khăn, họ đưa lên với tình cảm chân thành, tự nhiên chứ không có sự “sắp xếp” nào cả. 


Trong khi lực lượng Công an đang nỗ lực chống dịch, hỗ trợ cho người dân hạn chế những thiệt hại kinh tế do dịch bệnh gây ra bằng những hành động thiết thực như vậy thì có không ít đối tượng phản động, chống đối đã đăng tải các bài viết, đưa ra các bình luận tiêu cực về công tác phòng, chống dịch. Họ đưa ra các bài viết, bình luận bôi nhọ hình ảnh lực lượng CAND, cho rằng Công an đang “diễn kịch gặt lúa”, “diễn kịch hái vải thiều”... 


Gần đây, sau khi những hình ảnh thu hoạch lúa giúp người dân của Đoàn Thanh niên Công an huyện Yên Dũng được người dân, các trang báo đăng tải, lan tỏa hình ảnh đẹp của người chiến sĩ CAND, lan tỏa sự chung tay góp sức toàn dân vào chống dịch và giúp đỡ bà con nhân dân thì trên trang facebook Blogger Điếu Cày (tức Nguyễn Văn Hải – đối tượng đang sống lưu vong ở nước ngoài, thường xuyên có các hoạt động chống phá Việt Nam) đã đăng tải một số hình ảnh kèm bình luận cho rằng Công an Việt Nam đang “diễn” như: “lúa trong ảnh còn xanh chưa tới tuổi gặt”; “khi gặt, người ta phải nhìn vào hướng lúa và gặt theo chiều cây lúa ngả và bông lúa rủ để khi cúi xuống bông lúa không chọc vào mặt”; “khi gặt có nhiều người dàn hàng ngang đều và mở rộng không gian để không vướng víu nhau!”; “cắt lúa chẳng bao giờ nhảy vào giữa đám ruộng mà cắt vì sẽ dẫm lên lúa, trừ khi cứu lúa đổ”… 


Rõ ràng, nhìn vào hình ảnh thì chúng ta có thể thấy mặc dù lá lúa còn xanh nhưng bông lúa đã chín vàng và đã đến lúc thu hoạch. Với diện tích lúa của bà con đang phải cách ly ở vùng dịch huyện Yên Dũng, Bắc Giang rất lớn, trong khi lực lượng Công an có hạn về nhân lực, việc gặt lúa gấp rút như vậy cũng là để đảm bảo kịp thu hoạch lúa cho nhiều hộ gia đình. Hình ảnh mà Blogger Điếu Cày đưa ra có góc chụp thấp và khuất, khó thể thấy rõ được giữa vùng lúa đã được gặt với vùng lúa chưa gặt nên đối tượng đã sử dụng hình ảnh này để bình luận tiêu cực nhằm đánh lừa người xem, cho rằng những chiến sĩ công an “nhảy vào giữa đám lúa để gặt”!


Blogger Điếu Cày là một trang mạng chuyên đăng tải các bài viết sai sự thật, thường xuyên xuyên tạc, bôi nhọ uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các lực lượng chức năng như Công an, Quân đội. Với hơn 94 nghìn lượt theo dõi, việc trang này đăng tải hình ảnh và nội dung xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh người chiến sĩ CAND như trên tạo nên những hiệu ứng tiêu cực, những ấn tượng không tốt trên không gian mạng. 


Không chỉ riêng Blogger Điếu Cày mà nhiều trang phản động như “Việt Tân”, “Nhật ký yêu nước”, “Dân làm báo”... cũng vào hùa để ăn theo những hình ảnh mang tính miệt thị, vu cáo cán bộ, chiến sĩ Công an Việt Nam. Đáng chú ý, khi những bài viết này đăng lên có khá nhiều tài khoản mạng xã hội vào a dua, ăn theo nói leo, đưa ra những bình luận khiếm nhã, thiếu tôn trọng lực lượng đang ngày đêm làm công tác phòng, chống dịch.


Việc sử dụng các hình ảnh rồi miệt thị, bôi nhọ cán bộ, chiến sĩ CAND không phải là một chiêu trò mới lạ của thế lực chống đối, thù địch. Tuy nhiên, với phương châm “bình mới, rượu cũ”, các thế lực thù địch, phản động vẫn gây ra sự hoang mang, dao động đối với một bộ phận người xem thiếu hiểu biết, gây nên các tâm lý hoài nghi, không tôn trọng sự thật khách quan. Nhiều đối tượng còn sử dụng video, hình ảnh được cắt ghép, sai sự thật nhưng quảng bá là ảnh thật, người thật nhằm đánh lừa người xem. Mục đích của những chiêu trò này là từng bước tác động nhằm thay đổi nhận thức tư tưởng của người dân tham gia mạng xã hội, là những bước cơ bản để tiến hành chia rẽ lực lượng Công an với nhân dân.  


Với những luận điệu trên, lật ngược lại vấn đề, thử hỏi những người đang xuyên tạc, vu khống, bôi nhọ lực lượng Công an, họ đã làm được gì để hỗ trợ cho nhân dân vùng dịch, cho đất nước khống chế dịch bệnh hay chưa?Với mỗi người dân khi tham gia mạng xã hội, hãy là người dùng mạng tỉnh táo, không tiếp nhận, lan truyền thông tin xấu độc trong tình hình diễn biến dịch COVID - 19 hết sức phức tạp như hiện nay. Đặc biệt là không tin, nghe và không chia sẻ, bình luận, lan truyền những luận xuyên tạc, vu cáo, bôi nhọ hình ảnh lực lượng CAND.


Công an Bắc Giang giúp dân thu hoạch vải thiều – một trong những hình ảnh đẹp, bình dị giữa đại dịch COVID-19.

CÂU CHUYỆN ĐỘC ĐÁO VỀ TƯỢNG ĐÀI BÁC Ở THỦ ĐÔ NƯỚC NGA

 


Nằm sừng sững trên Quảng trường Hồ Chí Minh, bên cạnh nhà ga tàu điện ngầm “Hàn lâm” ở thủ đô Moskva của nước Nga là quần thể tượng đài Chủ tich Hồ Chí Minh rất độc đáo.


Quần thể tượng đài này ra đời ngày 18/5/1990 nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người. Đây là địa điểm rất quen thuộc của những người Việt Nam ở LB Nga vào những ngày lễ tết, ngày hội hay những ngày vui của gia đình. Bà con kiều bào người Việt Nam tại LB Nga thường xuyên đến nơi đây để đặt hoa trước tượng đài Hồ Chí Minh.


Phần chính của quần thể làm bằng đồng và đá hoa cương này là khuôn mặt hiền hậu, mỉnh cười của Bác trong một vòng tròn khổng lồ. Dưới hình tròn là tượng chàng trai Việt Nam tràn đầy sức sống ở tư thế đang bật đứng lên. Phía sau hình tròn là hai cây tre uốn cong. Chân đế phía dưới tượng đài có ghi câu nói bất hủ của Hồ Chủ tịch bằng tiếng Nga “Нет ничего дороже независимости, свободы” (Không có gì quý hơn độc lập, tự do).


Tác giả của tượng đài là nhà điêu khắc Vladimir Efimovich Tsigal và kiến trúc sư Roman Grigoryevich Kananin. Năm 1985, ông Tsigal đã thăm Việt Nam để tìm hiểu về Hồ Chí Minh cho dự án tạc tượng của mình. Theo lời kể của ông, sau khi tận mắt thấy những gì ở Việt Nam, ông cho rằng dự án cũ (theo truyền thống) đã không còn phù hợp và ông mường tượng ra quần thể tượng đài khác hẳn với ý tưởng ban đầu. Nhà điêu khắc Tsigal phân tích vòng tròn của bức tượng là hình tượng mặt trời của Việt Nam, với hàm ý mặt trời Hồ Chí Minh luôn tỏa sáng cho chàng trai Việt Nam mạnh mẽ đang vùng đứng lên. Cũng theo ông, ý định ban đầu thiết kế tượng là để chàng trai cầm súng. Tuy nhiên sau khi thăm Việt Nam, ông đã quyết định bỏ cây súng, ám chỉ sự vươn lên mạnh mẽ của nước Việt Nam trong thời bình. Còn hình ảnh hai cây tre uốn cong phía sau bức tượng xuất phát từ quan niệm tre là loài cây đặc trưng của Việt Nam, bền bỉ và dẻo dai, không gãy gục, giống như ý chí và sức mạnh Việt Nam.


Tsigal là nhà điều khắc nổi tiếng của Liên Xô trước đây và nước Nga ngày nay. Ông sinh ngày 17/9/1917 tại Odessa. Năm 1978, ông được phong Họa sĩ nhân dân Liên Xô. Ông cũng là tác giả của hơn 60 tượng đài và nhiều tác phẩm chân dung. Trong số này có rất nhiều tác phẩm tượng đài nổi tiếng được dựng ở nhiều nước, không chỉ nước Nga. Tsigal mất ngày 4/7/2013 và được an táng tại “Nghĩa trang Danh nhân” ở thủ đô Moskva. 


Qua lời kể của chị Phạm Thanh Xuân, giảng viên tiếng Việt tại Đại học Ngoại giao quốc gia Moskva (MGIMO), người từng đưa một đoàn làm phim đến phỏng vấn nhà điêu khắc Tsigal, trong cuộc phỏng vấn, ông còn ám chỉ việc Hồ Chí Minh đã gặp được V.I.Lenin. Theo ông, Hồ Chí Minh rất kính trọng Lenin, nhưng khi Người đến nước Nga lần đầu tiên thì Lenin đã không còn nữa. Tuy nhiên “số phận” đã để hai vị lãnh tụ này được gặp nhau. Đó là khi ông Tsigal sáng tác bức tượng Hồ Chí Minh thì cùng vào thời điểm đó cũng trong một xưởng ở Moskva, nhà điêu khắc Baburi cũng sáng tác một bức tượng Lenin rất lớn. Chính vì vậy, họ tin rằng rằng trong điêu khắc, hai vị lãnh tụ này đã gặp nhau.


Chị Phạm Thanh Xuân và một số người Việt lâu năm ở Moskva còn kể cho chúng tôi câu chuyện cảm động của vợ chồng bác Trương Quang Giáo,  82 tuổi, Chủ tịch Hội Người Việt Nam định cư tại LB Nga năm nay và vợ là bà Sveta. Đó là câu chuyện về 3 cây bạch dương trồng trước tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi một trong 3 cây bạch dương này bị chết, chính bác Trương Quang Giáo và vợ Sveta đã lặng lẽ đưa một cây bạch dương cao hơn 2m từ nhà vườn của bác cách Moskva hơn 80 km đến trồng lại tại quảng trường Hồ Chí Minh. Theo chị Phạm Thanh Xuân, mặc dù cây khá cao và vận chuyển bằng tàu điện ngầm (metro) rất khó khăn, nhưng hai vợ chồng bác Trương Quang Giáo vẫn quyết tâm và hăng hái thực hiện sứ mệnh này. Và cuối cùng, hai bác đã đưa được cây bạch dương đến trồng trước tượng đài Bác. Ngày nay, cây bạch dương của vợ chồng bác Trương Quang Giáo – Sveta vẫn xanh tươi và phát triển mạnh mẽ.




Tượng đài Bác Hồ ở quảng trường mang tên Bác ở thành phố Ulianovsk - quê hương của Lenin. Ảnh minh họa: Tâm Hằng/Pv TTXVN tại LB Nga


Chủ Nhật, 27 tháng 6, 2021

VẤN ĐỀ “ĐỐI TÁC” VÀ “ĐỐI TƯỢNG” TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG: TỪ NHẬN THỨC ĐẾN THỰC TẾ

 



   Chính sách đối ngoại của Việt Nam được thông qua tại Đại hội XIII của Đảng mang tính toàn diện và bao trùm, phản ánh nhận thức và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với thực tiễn phát triển của thời đại, với cục diện thế giới, khu vực và môi trường an ninh - đối ngoại, trong đó có việc xác định rõ “đối tác” và “đối tượng” với sự kế thừa và tiếp nối chính sách đối ngoại nhất quán mà Việt Nam tiến hành từ khi bắt đầu đổi mới đến nay.


   Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về “đối tác” và “đối tượng” trong quan hệ đối ngoại từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay


   Sự phát triển nhận thức và quan điểm của Đảng về “đối tác” và “đối tượng” trong chính sách đối ngoại gắn liền với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được khởi xướng từ Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986). Trong định hướng đối ngoại được Đại hội VI xác định, ngoài việc khẳng định tăng cường quan hệ truyền thống đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với các nước trong khối xã hội chủ nghĩa, Đảng ta còn bày tỏ mong muốn sẵn sàng hợp tác với các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Quan điểm này phát triển dựa trên nhận thức của Đảng ta, đó là “ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại” nhằm tranh thủ mọi nguồn lực để phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước. Tuy nhiên, bước chuyển thực sự mang tính chiến lược về nhận thức và quan điểm đối ngoại của Đảng được thể hiện qua Nghị quyết số 13/NQ-TW, ngày 20-5-1988, của Bộ Chính trị, “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”. Nghị quyết chỉ ra chiến lược đối ngoại của Việt Nam là “thêm bạn, bớt thù”, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cùng tồn tại hòa bình, “mở rộng quan hệ và đa dạng hóa quan hệ hợp tác quốc tế” với mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, thúc đẩy hội nhập quốc tế, phá thế bao vây, cấm vận, thu hút sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc đổi mới của đất nước. Nghị quyết số 13/NQ-TW được xem như bước ngoặt về tư duy đối ngoại có tầm chiến lược và là nền tảng để Đảng ta phát triển và mở rộng hơn nữa chính sách đối ngoại trong giai đoạn tiếp theo.


   Đến Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng ta nêu rõ “chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”. Với chính sách đối ngoại rộng mở, Đảng ta khẳng định: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Ở thời điểm đó, với uy tín và vị thế của đất nước, có thể hiểu Việt Nam “muốn là bạn với tất cả các nước” là chủ động thúc đẩy quan hệ và mong muốn trở thành “đối tác” của các nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII của Đảng cũng xác định phương hướng đối ngoại của Việt Nam: “Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước”. Theo đó, kết quả đạt được thời kỳ này là Việt Nam đã phá được thế bị bao vây, cấm vận; triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; khôi phục, mở rộng và thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả các nước lớn, trong đó bước ngoặt quan trọng là việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ, ký kết Hiệp định khung với EU và gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong cùng năm 1995.


   Kế thừa đường lối đối ngoại và phát huy thành quả tích cực đạt được trên các lĩnh vực sau 10 năm đổi mới, lần đầu tiên Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) khẳng định: “tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển... Hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, thông qua thương lượng để tìm những giải pháp phù hợp giải quyết các vấn đề tồn tại và tranh chấp, bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, hợp tác và phát triển”.


   Bước sang thế kỷ XXI, sau 15 năm đổi mới, thế và lực của Việt Nam được tăng cường, uy tín trên trường quốc tế ngày một nâng cao. Từ đó, Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) đã điều chỉnh phương châm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế” thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn” và lần đầu tiên nhấn mạnh thêm “là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Cụm từ “Việt Nam sẵn sàng là bạn” có thể được diễn giải với những thành tựu đạt được, vị thế quốc tế của Việt Nam đã được nâng cao sau 15 năm đổi mới, cho phép Việt Nam không chỉ chủ động mà còn đón nhận sự chủ động từ các “đối tác” muốn thúc đẩy và phát triển quan hệ với một nước Việt Nam đổi mới. Nói cách khác, quan hệ “đối tác” trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam đã có sự thúc đẩy hai chiều. Việc bổ sung cụm từ “là đối tác tin cậy” cho thấy, Việt Nam không chỉ mong muốn mở rộng quan hệ, mà còn nâng cấp quan hệ lên tầm cao mới, đồng thời đặt tiền đề cho việc xác định đối tác trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam.


   Trước Đại hội IX của Đảng, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 07 NQ/TW, ngày 27-11-2001, “Về hội nhập kinh tế quốc tế”, trong đó đề ra phương châm chỉ đạo trong hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài để phục vụ phát triển kinh tế đất nước. Theo đó, Nghị quyết chỉ ra: “hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tùy theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể”; đồng thời, nhấn mạnh việc “kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng..., cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ “diễn biến hòa bình” đối với nước ta”.


   Đến giữa nhiệm kỳ khóa IX, Hội nghị Trung ương 8 (tháng 7-2003) thông qua Nghị quyết “Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Điểm nổi bật và có ý nghĩa của Nghị quyết này đó là lần đầu tiên một văn bản chính thức của Đảng đưa ra nguyên tắc xác định “đối tác” và “đối tượng” trong quan hệ quốc tế của Việt Nam. Việc đưa ra nguyên tắc này xuất phát từ tình hình thực tiễn trong quan hệ quốc tế ngày một mở rộng và đa dạng của Việt Nam; đồng thời, giúp có cái nhìn biện chứng giữa hợp tác và đấu tranh, giữa lợi ích kinh tế và giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia, giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và nghĩa vụ khi hội nhập quốc tế. Có thể nói, việc xác định và chỉ rõ phạm vi “đối tượng” và “đối tác” trong Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX là sự phát triển nhận thức, tư duy nhạy bén và biện chứng có tầm chiến lược của Đảng, phù hợp với xu thế diễn biến nhanh chóng trong quan hệ quốc tế. Điều này giúp Việt Nam tránh được sự mơ hồ và thoát khỏi tư duy cực đoan về “bạn - thù” trong thời kỳ Chiến tranh lạnh.


   Các Đại hội X (tháng 4-2006), Đại hội XI (tháng 1-2011) và Đại hội XII (tháng 1-2016) của Đảng tiếp tục khẳng định chính sách đối ngoại nhất quán của Việt Nam là “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ”, nhấn mạnh cần “chủ động và tích cực” hội nhập quốc tế, nhưng trên hết là vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Đặc biệt, kế thừa Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX, Hội nghị Trung ương 8 khóa XI đã thông qua Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25-10-2013, “Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Nghị quyết số 28-NQ/TW đưa ra quan điểm về “đối tác” và “đối tượng”, theo đó những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kể lực lượng nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh của Việt Nam. Có thể nói, việc xác định “đối tác” và “đối tượng” này là cơ sở để xử lý đúng đắn trong hoạt động đối ngoại, thể hiện rõ mối quan hệ hữu cơ và biện chứng của hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc xác định “đối tác” như vậy là phù hợp và nhất quán với quan điểm của Đảng ngay từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, đó là: Việt Nam muốn/sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế. Trong khi đó, theo diễn biến của tình hình thế giới và quá trình thực hiện sự nghiệp cách mạng, thực tiễn đã chỉ ra “đối tượng” ở đây bao gồm không chỉ các thế lực có âm mưu, hành động gây chiến tranh, bạo loạn lật đổ chế độ và Nhà nước xã hội chủ nghĩa, mà còn là những lực lượng xâm phạm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc bằng phương thức vũ trang và phi vũ trang, cả từ bên trong và bên ngoài đất nước. Tuy nhiên, điều quan trọng là không được cứng nhắc trong tư duy, chỉ nhìn thấy một mặt trong “đối tác” hay “đối tượng”. Điều này dễ dẫn tới sa vào thái độ cực đoan. Với nhận thức đó, Nghị quyết cho rằng “trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”. Sự phát triển nhận thức và quan điểm của Đảng về “đối tác” và “đối tượng”, phương thức áp dụng là biện chứng và phù hợp với thực tiễn. Từ quan điểm của Nghị quyết số 28-NQ/TW, Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh hoạt động đối ngoại của Việt Nam bao gồm hai mặt “hợp tác và đấu tranh”.


   Như vậy, có thể tóm lược một cách ngắn gọn rằng, “đối tác” được hiểu là “đối tác hợp tác”, còn “đối tượng” là “đối tượng đấu tranh”. Và dù là “đối tác hợp tác” hay “đối tượng đấu tranh” thì mục tiêu cuối cùng và tối thượng là vì “lợi ích quốc gia - dân tộc”, “giữ vững ổn định an ninh quốc gia, trật tự xã hội, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”.


     “Đối tác” và “đối tượng” trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng


   Sau khi phân tích tình hình thế giới và khu vực, khẳng định Việt Nam kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng đưa ra định hướng hoạt động đối ngoại, đó là: “Đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương... Coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng... Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và đối tác quan trọng khác... Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước”.


   Nhìn một cách tổng quát, chính sách đối ngoại được Đại hội XIII của Đảng thông qua là sự kế thừa và tiếp nối chính sách đối ngoại từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, nhất là chính sách đối ngoại được thông qua tại Đại hội XII của Đảng (năm 2016), với chủ trương nhất quán là “đa dạng hóa và đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại”, “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.


   Về “đối tác”, có thể dễ dàng nhận thấy ngoài hai nước Lào và Cam-pu-chia có quan hệ “láng giềng đặc biệt”, cho đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 17 nước và đối tác toàn diện với 13 nước. Trong số các đối tác, Việt Nam cũng đặt thứ tự ưu tiên với các nước láng giềng, tiếp đó là các đối tác chiến lược và đối tác toàn diện.


   Tuy nhiên, quan hệ đối tác của Việt Nam không chỉ dừng lại ở những đối tác truyền thống, đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, mà còn bao gồm cả các “đối tác quan trọng khác”. Hàm ý của “đối tác quan trọng khác” này dựa trên phạm vi quan hệ đối ngoại sâu rộng hiện nay của Việt Nam. Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước thành viên của Liên hợp quốc, là thành viên của nhiều tổ chức khu vực và quốc tế; đã ký kết 15 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó FTA song phương Việt Nam - Anh và Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) là những FTA mới nhất. Với mạng lưới quan hệ đối ngoại sâu rộng và nhiều tầng nấc như vậy, Việt Nam có lợi ích đan xen giữa các đối tác với nhau. Vì vậy, nói một cách khác, “đối tác” của Việt Nam là tất cả những nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao, là những nước có quan hệ kinh tế với Việt Nam, là những thành viên trong các tổ chức khu vực và thế giới (như ASEAN và Liên hợp quốc), cơ chế - hiệp định đa phương (như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - CPTPP, RCEP, Tiểu vùng Mê Công), diễn đàn (như Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương - APEC, Diễn đàn hợp tác Á - Âu  - ASEM), các phong trào mà Việt Nam là thành viên. Nói như vậy có nghĩa không phải chỉ những mối quan hệ nào được xác định là “đối tác chiến lược” hay “đối tác toàn diện” mới là “đối tác” của Việt Nam, mà đó là chỉ dấu cho mức độ và tính chất của mối quan hệ đối tác được thiết lập trên cơ sở nhu cầu của Việt Nam và các đối tác. Lẽ dĩ nhiên, mức độ và tính chất quan hệ đối tác này sẽ quyết định phạm vi hợp tác chiến lược và toàn diện theo thỏa thuận và cách hiểu giữa hai bên, không lệ thuộc vào cách đánh giá của bên thứ ba.


   Về “đối tượng”, Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII chỉ rõ đó là những lực lượng có “âm mưu, hành động can thiệp... vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước”. Cùng với đó, Đại hội XIII của Đảng xác định các thách thức: 1- Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. 2- Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta. 3- Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định... là những thách thức rất lớn đối với nước ta trong thời gian tới. Hai trong số ba thách thức nêu trên trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến các “đối tượng” bên ngoài. Riêng đối với thách thức thứ hai, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 chỉ rõ: Tình hình Biển Đông thời gian gần đây mặc dù đã có một số chuyển biến tích cực, nhưng các yếu tố gây mất ổn định, căng thẳng vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp đang đặt ra thách thức mới đối với việc bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, bảo vệ hòa bình và ổn định của Việt Nam. Những diễn biến mới trên Biển Đông, trong đó có các hành động đơn phương, áp đặt dựa trên sức mạnh, bất chấp luật pháp quốc tế và hoạt động quân sự hóa, làm thay đổi nguyên trạng, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam theo luật pháp quốc tế, ảnh hưởng đến lợi ích của các quốc gia liên quan, đe dọa hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trong khu vực. Ngoài ra, các vấn đề an ninh phi truyền thống, như biến đổi khí hậu, buôn bán người, khủng bố, di cư bất hợp pháp, thảm họa môi trường, dịch bệnh, thiên tai, thay đổi dòng chảy trên các con sông xuyên biên giới... tác động đến an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh môi trường ở nhiều địa phương, cũng là những thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam. Như vậy, nếu cho rằng, “đối tượng” là những gì cản trở sự phát triển của Việt Nam, chống phá chế độ, đe dọa đến sinh mệnh của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự tồn vong của chế độ, xâm hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc, thì “đối tượng” nên được hiểu là bao gồm cả những thách thức trên.


    Một số hướng tiếp cận và giải quyết mối quan hệ “đối tác” và “đối tượng” trong cục diện thế giới mới


   Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế... Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn hợp tác, thỏa hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới... Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn”.


   Trên thực tế, tình hình thế giới, nhất là ngay trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á, đã có những diễn biến phức tạp, nguy cơ xung đột vũ trang tăng cao liên quan đến chủ quyền và tranh chấp lãnh thổ, đe dọa đến an ninh khu vực. Không chỉ có vậy, từ khi chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở” của Mỹ được thực thi, đến nay, khu vực này đã trở thành trọng tâm điều chỉnh chính sách an ninh và đối ngoại của các nước trong và ngoài khu vực. Một số nước châu Âu như Pháp, Đức, Anh cũng đã đưa ra chiến lược riêng về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từng bước gia tăng can dự vào khu vực Biển Đông.


   Là một quốc gia nằm ở khu vực địa - chính trị đang có sự cạnh tranh gay gắt và với mạng lưới quan hệ đối ngoại sâu rộng có lợi ích đan xen, Việt Nam chịu những ảnh hưởng và tác động nhất định. Trước tình hình đó, cách tiếp cận và hướng giải quyết mối quan hệ “đối tác” và “đối tượng” trong chính sách đối ngoại của Việt Nam cần:


   Một là, kiên định nguyên tắc và kiên trì những vấn đề mang tính chiến lược, nhưng khôn khéo và linh hoạt trong sách lược và triển khai thực hiện. “Dĩ bất biến ứng vạn biến” cần luôn là phương châm đối ngoại của Việt Nam trong mọi hoàn cảnh, với mọi vấn đề, giữa Việt Nam và các “đối tác”, trong mối quan hệ chuyển hóa giữa “đối tác” và “đối tượng”.


   Hai là, linh hoạt trong cách nhìn nhận “đối tác” và “đối tượng”. Cần tránh quan điểm “nếu không ủng hộ ta thì là kẻ thù của ta”. Trong thực tiễn hoạt động đối ngoại, một mặt, Việt Nam phải luôn tỉnh táo nhận thức rằng “không có đồng minh vĩnh viễn”; mặt khác, cần biết tranh thủ những mặt xung đột của các “đối tượng” để có lợi cho ta. Trong quan hệ quốc tế, điều căn bản nhất đối với mọi quốc gia chính là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc.


   Ba là, “đối tác” và “đối tượng” trong chính sách đối ngoại được Đại hội XIII của Đảng thông qua phản ánh mối quan hệ hữu cơ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và dựa trên nền tảng của các nghị quyết trước đây, nhất là Nghị quyết số 28-NQ/TW. Tuy nhiên, thực tế luôn vận động và biến đổi, do vậy, Đảng ta đã có kế hoạch tổng kết về chiến lược, trong đó bao gồm cả vấn đề xác định “đối tác” và “đối tượng”. Việc tổng kết này cần được tiến hành trên tinh thần cầu thị, lắng nghe để định hướng chính sách mang tầm chiến lược, tránh những quan điểm lợi dụng nhằm xuyên tạc và cách tiếp cận bị ảnh hưởng bởi quan điểm có tính “phe phái” trong quan hệ quốc tế. Bài học lịch sử cho thấy, dứt khoát không và không ai có thể buộc Việt Nam phải “chọn phe”. Việc ai là “đối tác” sẽ do Việt Nam chủ động thúc đẩy, nhưng đồng thời cũng rộng mở đón nhận thiện chí từ phía muốn Việt Nam là đối tác của họ trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc được bảo đảm. Còn về “đối tượng”, trong quá trình cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII, nên chăng cần sử dụng khái niệm mềm hơn, cách diễn đạt uyển chuyển hơn, phù hợp với “những nhận thức mới và tư duy mới về an ninh quốc gia”, nhưng cũng kiên quyết bảo vệ những vấn đề thuộc về nguyên tắc, thuộc về lợi ích căn bản và cốt lõi của Việt Nam. Với cách tiếp cận đó, nên chăng đề xuất cách diễn đạt rõ hơn các nội dung có tính lượng hóa về “đối tượng”, đó là: Tất cả những thách thức phương hại đến an ninh quốc gia; ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội; sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa, khối đại đoàn kết dân tộc; độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đều là đối tượng cần đấu tranh nhằm bảo đảm lợi ích tối thượng của quốc gia - dân tộc. Những thách thức ở đây bao gồm cả âm mưu, hành động của các “thế lực thù địch”, những diễn biến và nguy cơ xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, những vấn đề an ninh phi truyền thống. Khái niệm “thách thức” ở đây mang tính định lượng, giúp chúng ta có thể minh định rõ ràng “đối tượng” trong ứng xử.


   Việc xác định rõ “đối tác” và “đối tượng” trong chính sách đối ngoại của Đại hội XIII của Đảng thể hiện sự kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX và Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI đã nhất quán trong việc xác định “đối tác” và “đối tượng” là cơ sở để thể chế hóa “đối tác” và “đối tượng” trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong tình hình mới. Kết quả của việc thực hiện chính sách đối ngoại “đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”, sự linh hoạt trong nhận diện và triển khai nguyên tắc “đối tác” và “đối tượng” đã góp phần làm cho đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay./.

Không lơ là "giặc nội xâm"

 


Thực tế cho thấy tham nhũng song hành với quyền lực, gắn với công tác cán bộ, với công tác xây dựng Đảng. Khi bổ nhiệm cán bộ, có thể lúc này lúc khác vẫn để lọt một số trường hợp được “nâng đỡ không trong sáng”, nhưng cơ bản người được bổ nhiệm đều hội đủ tiêu chuẩn, phẩm chất, năng lực. Sự tha hóa thường chỉ nảy sinh trong quá trình công tác, khi quyền lực đi liền với những cám dỗ mà người thiếu bản lĩnh, dao động tư tưởng sẽ dễ bị sa ngã. Đó chính là quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” - một kẻ thù giấu mặt vô cùng nguy hiểm, khó nhận diện và đến nay vẫn là một thách thức lớn đối với vai trò lãnh đạo của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.


Đại hội XIII của Đảng tiếp tục đề ra nhiều giải pháp, nhiệm vụ, với quyết tâm cao phòng, chống tham nhũng “không dừng, không nghỉ, không kể đó là ai, không có vùng cấm”. Giải pháp “ba không” của nhiệm kỳ Đại hội XII trở về trước, nay đã được bổ sung “không muốn” tham nhũng (không thể, không dám, không cần, không muốn) nhằm xác định tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự tự giác, thống nhất cao về ý chí và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về phòng chống tham nhũng, lãng phí, trước hết là sự gương mẫu, quyết liệt của người đứng đầu. Điều này một lần nữa cũng khẳng định quan điểm nhân văn, nhân đạo của Đảng trong xử lý tiêu cực: Xử một vài người để răn đe, giáo dục, cảnh tỉnh người khác đừng vi phạm; cảnh báo, ngăn ngừa là chính, không phải cốt xử cho nhiều, xử cho nặng mới là nghiêm.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ

 


   Trong quá trình thực hiện mục tiêu, phương hướng “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại.


   Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội, công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ...”, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI xác định lấy “xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, gắn bó máu thịt với nhân dân, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của toàn quân”. Để hiện thực hóa chủ trương, phương hướng ấy, hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT) trong toàn quân cần được đổi mới, nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.


   Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của CTÐ, CTCT đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, những năm qua, cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp trong toàn quân đã tập trung quán triệt, cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị của Ðảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng; kế hoạch, hướng dẫn của Tổng cục Chính trị, chủ động xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nghiêm túc các nền nếp, chế độ CTÐ, CTCT. Công tác xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức được đặc biệt chú trọng. Trong mọi tình huống, quân đội luôn thể hiện bản lĩnh vững vàng, là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... 


   Đối với hoạt động CTĐ, CTCT trong các nhiệm vụ, các đơn vị trong toàn quân đã có nhiều đổi mới về nội dung, phương pháp, cách làm phù hợp, hiệu quả, nhất là trong sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ), huấn luyện, diễn tập, bảo vệ chủ quyền biên giới, hải đảo. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác dân vận, đặc biệt trong tham gia xây dựng, củng cố cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, xóa đói, giảm nghèo bền vững, tuyên truyền, vận động nhân dân; giúp đỡ nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai; tham gia phòng, chống đại dịch Covid-19. Qua đó, đã tiếp tục lan tỏa phẩm chất, nhân cách cao đẹp, tô thắm thêm hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ, khẳng định uy tín của Quân đội nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; xứng đáng với sự tin cậy, yêu mến của nhân dân. 


   Những năm tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song tình hình thế giới và trong nước diễn biến hết sức mau lẹ, phức tạp, khó lường. Các yếu tố an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, khủng bố, thiên tai, dịch bệnh tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống chính trị, xã hội của các quốc gia, dân tộc. Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được củng cố, nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, đất nước phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình Biển Đông và một số địa bàn chiến lược tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định. Vì vậy, nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển, khó khăn, phức tạp hơn. Trong bối cảnh đó, quân đội tiếp tục được Đảng và Nhà nước đầu tư xây dựng về mọi mặt để tiến tới xây dựng quân đội hiện đại. Vì vậy, hoạt động CTĐ, CTCT cần tiếp tục được đổi mới, nâng cao chất lượng để đáp ứng với sự phát triển của nhiệm vụ và tạo nền tảng vững chắc nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội. Trong đó, tập trung vào những nội dung sau:


   Một là, đổi mới tư duy, nhận thức của cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động CTĐ, CTCT. Xây dựng quân đội theo hướng hiện đại đòi hỏi phải hiện đại hóa toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, các mặt công tác. Hoạt động CTĐ, CTCT cũng không nằm ngoài xu thế đó. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động sâu sắc đến đời sống xã hội và theo đó, nhận thức của con người nói chung, của bộ đội nói riêng cũng ngày một cao hơn. Thực tế ấy đòi hỏi hoạt động CTĐ, CTCT phải không ngừng đổi mới, trong đó nhiều lĩnh vực phải được số hóa theo chuẩn chung của kỷ nguyên chuyển đổi số. Vì vậy, trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động CTĐ, CTCT, cần và rất cần sự đổi mới tư duy của cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp.


   Hai là, đổi mới nội dung, phương thức, biện pháp công tác chính trị, tư tưởng trong quân đội phù hợp với đặc điểm nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ trong bối cảnh mới hiện nay. Theo đó, cần chỉ đạo quyết liệt việc thực hiện Đề án đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới. Tăng cường giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất cách mạng, truyền thống, nhiệm vụ của quân đội và đơn vị; làm rõ đối tác, đối tượng; âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Đặc biệt, cần triệt để tận dụng các nền tảng mạng xã hội và phát huy vai trò nòng cốt của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ quân đội trong tham gia tiến hành công tác giáo dục chính trị. Đổi mới công tác thông tin, tuyên truyền, văn hóa, văn nghệ, thi đua-khen thưởng và thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Bảo đảm nội dung thiết thực, phù hợp đối tượng; hình thức có sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, cập nhật, tiếp thu có chọn lọc những trào lưu, xu thế mới của xã hội nhằm tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn, mang lại hiệu quả thực chất trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng.


   Ba là, tiếp tục đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp, tác phong công tác của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội, coi đây là khâu đột phá, quyết định; làm cơ sở nền tảng để xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về tổ chức và xây dựng đội ngũ đảng viên thực sự tiên phong, gương mẫu. Theo đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần sâu sát, cụ thể, tỉ mỉ, đoàn kết, thống nhất, hành động quyết liệt, hiệu quả, nói đi đôi với làm. Đề cao trí tuệ tập thể kết hợp với sự chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của cán bộ chủ trì trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ.


   Thực hiện nghiêm túc quy trình đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bố trí, sắp xếp và luân chuyển cán bộ giữa các cơ quan, đơn vị trong toàn quân, trước hết là đội ngũ cán bộ chủ trì lãnh đạo, chỉ huy các cấp. Chú trọng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có phẩm chất, năng lực ưu trội và cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số. Quyết liệt thực hiện các chính sách thu hút nhân tài vào làm việc trong quân đội, nhất là trên những lĩnh vực nghiên cứu, sản xuất sản phẩm công nghệ quân sự, công nghệ thông tin... góp phần thực hiện quá trình hiện đại hóa quân đội theo lộ trình đã xác định.  


   Phát huy cao độ vai trò của ban chỉ đạo 35 các cấp, các cơ quan báo chí trong quân đội và thế mạnh về khoa học, công nghệ của các tập đoàn, học viện, nhà trường, trung tâm nghiên cứu... của quân đội để tăng cường các biện pháp bảo vệ bí mật, bảo đảm an ninh, an toàn các hoạt động của Đảng, Nhà nước và quân đội. Phát huy sức mạnh tổng hợp, tích cực đấu tranh phê phán các quan điểm chính trị sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, đường lối của Đảng trong tình hình mới.


   Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; trong đó trọng tâm là kiểm tra, giám sát cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị. Đặc biệt quan tâm kiểm tra, giám sát những vị trí, những nơi dễ phát sinh vi phạm, nơi có nhiều bức xúc nổi cộm, dư luận quan tâm.


   Bốn là, thực hiện tốt các chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội; quan tâm đến đời sống của các đối tượng còn nhiều khó khăn, nhất là sĩ quan trẻ, quân nhân chuyên nghiệp... bảo đảm mức sống trung bình cho gia đình quân nhân trong điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước hiện nay. Huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội trong các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa” tạo hiệu ứng lan tỏa một cách sâu rộng trong xã hội. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và các tiến bộ khoa học-công nghệ khác để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tìm kiếm, quy tập mộ liệt sĩ và giải quyết các chính sách tồn đọng sau chiến tranh.


   Năm là, tích cực đổi mới nội dung, phương pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động CTĐ, CTCT trong các nhiệm vụ; đặc biệt là nhiệm vụ SSCĐ bảo vệ chủ quyền biên giới, hải đảo và các nhiệm vụ mới đặt ra; tiếp tục động viên toàn quân ra sức thực hiện tốt chức năng đội quân công tác trong việc phòng, chống thiên tai, thảm họa, dịch bệnh... cùng các hoạt động quân sự, quốc phòng ở trong và ngoài nước. Tích cực ứng dụng số hóa trên một số lĩnh vực như: Thủ tục hành chính, dữ liệu nhân lực, vật lực... để góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các hoạt động CTĐ, CTCT. Chăm lo xây dựng các tổ chức quần chúng và hội đồng quân nhân vững mạnh, bảo đảm hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ; xây dựng khối đoàn kết, thống nhất “toàn quân một ý chí” để góp phần xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


(Thiếu tướng, PGS, TS NGUYỄN HÙNG OANH, Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Chính trị)

Thứ Tư, 23 tháng 6, 2021

LẬT MẶT CÁC THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ LIÊN QUAN VACXIN COVID-19








Ngày 26/5, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 779/QĐ-TTg thành lập Quỹ vắc xin phòng COVID-19. Khi cả nước đang chung tay vào cuộc chống dịch bằng việc tích cực đóng góp để Chính phủ mua vaccine tiêm chủng cho toàn dân thì trên mạng xã hội những ngày qua các cá nhân, tổ chức chống phá liên tục tung ra luận điệu bịa đặt, xuyên tạc về hành động thiết thực này.

Trên mạng xã hội, các tổ chức chống phá như Chân Trời mới media, Việt Tân… liên tục đăng tải thông tin về việc Chính phủ kêu gọi người dân doanh nghiệp và các tổ chức đóng góp, hỗ trợ kinh phí mua vaccine ngừa Covid-19. Tiêu biểu là những bài viết như “Nhà nước CSVN kêu gọi hỗ trợ mua vaccine có gì sai sai”, “Đốt tiền cúng ma” với nội dung hết sức xuyên tạc, bịa đặt như: “Chính phủ không thể thu xếp nổi 1,2 tỷ USD để mua vaccine về tiêm chủng cho người dân. Tất cả những điều này cho chúng ta biết điều gì? Đó là một sự dối trá khủng khiếp”, “Nếu qui đổi ra tiền VN thì khoảng 25.000 tỷ đồng. Số tiền này tương đương với số tiền chưa giải ngân hết của gói “cứu trợ dân nghèo” 30.000 tỷ đồng mà Nhà nước đã hứa hồi quý 1 năm 2020”,….

       Theo tính toán của Bộ Y tế, dự kiến chúng ta cần mua khoảng 150 triệu liều vắc xin phòng Covid-19 để tiêm phòng cho khoảng 75 triệu người dân, với tổng nhu cầu kinh phí ước khoảng 25,2 nghìn tỷ đồng. Đây là yêu cầu nguồn kinh phí rất lớn. Vì vậy chủ trương chung của Chính phủ là bên cạnh nguồn ngân sách thì cần huy động thêm các nguồn lực từ đóng góp mang tính thiện nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để cùng với nhà nước mua đủ số lượng vắc xin tiêm kịp thời cho người dân.

     Việc đóng góp vào Quỹ Vắc xin phòng Covid-19 là sự kêu gọi đóng góp một cách tự nguyện của các tổ chức, cá nhân và không có mức đóng góp tối thiểu cũng như mức đóng góp tối đa. Tất cả đều trên cơ sở tinh thần tự nguyện của các tổ chức, cá nhân. Và với mỗi đồng đóng góp dù là nhỏ nhất chúng tôi cũng đều trân trọng và quản lý công khai, minh bạch. Đặc biệt, theo quy định tại Khoản 1, Điểm 2-Nghị định 44/2021/NĐ-CP của Chính phủ thì đối với khoản chi ủng hộ Quỹ vắc xin này, doanh nghiệp được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.

Quỹ vắc xin được thành lập với sứ mệnh huy động tổng hợp nguồn lực đóng góp xã hội để chia sẻ với ngân sách nhà nước nhằm phục vụ cho hoạt động mua, nhập khẩu vắc xin, nghiên cứu, sản xuất vắc xin. Mỗi đóng góp của người dân vào Quỹ vắc xin phòng Covid-19 đều hướng tới mục tiêu cuộc sống an toàn hơn của bản thân, gia đình, cộng đồng và cả xã hội.

      Mỗi đóng góp, dù từ vài trăm tỷ đồng của các doanh nghiệp, tổ chức hay vài chục nghìn đồng của các em nhỏ, học sinh, sinh viên hay người già… đều được thấu hiểu và trân quý. 

   Bên cạnh đó, trước những diễn biến phức tạp, khó lường của dịch Covid-19, các cơ quan, ban, ngành trên địa bàn tỉnh đã và đang phối hợp sát sao trong công tác tuyên truyền thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời đến người dân tình hình phòng chống dịch bệnh. Đặc biệt, theo dõi, rà quét các trang mạng xã hội, kịp thời ngăn chặn, xử lý có hiệu quả những thông tin sai lệch, lợi dụng tình hình để gây hoang mang trong xã hội và khó khăn trong công tác phòng chống dịch. Các trường hợp đưa thông tin sai sự thật làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh địa phương và gây hoang mang dư luận trên địa bàn tỉnh sẽ được các cơ quan chức năng cương quyết xử lý nghiêm theo đúng quy định pháp luật.

    Trong bối cảnh dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, bên cạnh sự nỗ lực vào cuộc của các cấp, ngành, để ngăn ngừa và đi tới thành công trong việc dập dịch lần này, chúng ta nên thật bình tĩnh và tuân thủ nghiêm những cảnh báo cũng như hướng dẫn khoa học phòng chống lây nhiễm của ngành Y tế. Những thông tin này liên tục được ngành Y tế chuyển tải đến người dân qua các phương tiện truyền thông đại chúng cũng như tin nhắn rất chi tiết đến máy điện thoại cầm tay mỗi người dân mỗi ngày. Hãy sáng suốt trong tiếp nhận và xử lý thông tin, theo dõi sát thông tin trên các kênh chính thống, không nghe theo, không lan truyền thông tin không xác thực, kịp thời thông báo đến cơ quan chức năng các trường hợp đăng thông tin bịa đặt, sai sự thật về dịch bệnh.



VIỆT NAM-LB NGA TIẾP TỤC TRIỂN KHAI HIỆU QUẢ HỢP TÁC VỀ KỸ THUẬT QUÂN SỰ

 


   Sáng 23-6, tại Trụ sở Bộ Quốc phòng, Thượng tướng Lê Huy Vịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Đồng Chủ tịch Ủy ban liên Chính phủ Việt – Nga về hợp tác kỹ thuật quân sự (KTQS), Chủ tịch Phân ban Việt Nam đã tiếp ông Anatoly Chaprynov, Đại diện Cơ quan Liên bang về hợp tác KTQS Nga tại Việt Nam.


   Tại buổi tiếp, ông Anatoly Chuprynov chúc mừng Thượng tướng Lê Huy Vịnh được cử giữ chức Đồng Chủ tịch Ủy ban liên Chính phủ Việt - Nga về hợp tác KTQS, Chủ tịch Phân ban Việt Nam.


   Thừa ủy quyền của Chủ tịch Phân ban Nga trong Ủy ban liên Chính phủ Nga - Việt về hợp tác KTQS, đại diện Cơ quan Liên bang về hợp tác KTQS Nga đã trao đổi về tình hình và kết quả hợp tác KTQS thời gian qua, trong đó nhấn mạnh đại dịch Covid-19 đã gây ảnh hưởng đến các hoạt động hợp tác trực tiếp giữa hai bên. Ông Anatoly Chuprynov bày tỏ mong muốn thúc đẩy hơn nữa hợp tác KTQS với Việt Nam vào thời gian tới, trước mắt đề xuất hai bên tiến hành Kỳ họp lần thứ 22 Ủy ban liên Chính phủ Nga - Việt về hợp tác KTQS trong năm 2021.


  Cảm ơn lời chúc của ông Anatoly Chuprynov, Thượng tướng Lê Huy Vịnh đánh giá cao kết quả hợp tác KTQS của hai nước trong thời gian qua, nhất là vai trò của Ủy ban liên Chính phủ Việt - Nga về hợp tác KTQS. Thượng tướng Lê Huy Vịnh ghi nhận các đề xuất hợp tác của Nga trong thời gian tới; đề nghị hai bên tiếp tục triển khai hiệu quả các nội dung hợp tác có trong kế hoạch; đồng thời phát huy và hoàn thiện các khuôn khổ và cơ chế hợp tác hiện có./.

HỌC VÀ LÀM THEO BÁC: VÌ NHÂN DÂN PHỤC VỤ

 



   Có rất nhiều những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, nhưng đều tựu chung lại ở điểm: Học Bác để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì nhân dân phục vụ.


     VIỆC GÌ CÓ LỢI CHO DÂN PHẢI HẾT SỨC LÀM


   Theo Trung tướng Trịnh Văn Quyết, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam cho biết, toàn quân quán triệt, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém, Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Vì vậy, Quân đội tiến hành công tác dân vận, không chỉ là nhiệm vụ của Quân đội thực hiện chức năng “đội quân công tác” mà còn là tình cảm, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ đối với sự yêu thương, đùm bọc giúp đỡ, che chở của nhân dân trong suốt quá trình xây dựng, phát triển, trưởng thành và chiến đấu của Quân đội, phản ánh bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây cũng là nhân tố quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh to lớn của Quân đội, cùng với toàn Đảng, toàn dân làm nên những chiến thắng vẻ vang trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


   Trong những năm qua Quân đội luôn xung kích đi đầu trong phòng, chống khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống dịch bệnh và làm tốt chính sách với người có công với cách mạng. Hàng năm, toàn quân tổ chức hàng trăm đợt, với hàng chục nghìn lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia giúp dân “xóa đói, giảm nghèo”, tích cực tham gia phong trào thi đua “Toàn quân chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Quân đội chung tay vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau”, đã có nhiều mô hình mới như: “Xóa một hộ đói, giảm một hộ nghèo”, “1.000 nhà tình nghĩa cho gia đình chính sách”, “Hũ gạo vì người nghèo”, “Bò giống giúp người nghèo biên giới”, “Nâng bước em tới trường”, “Hải quân Việt Nam làm điểm tựa cho ngư dân vươn khơi, bám biển”... Không quản hiểm nguy, cán bộ, chiến sĩ quân đội sẵn sàng lên đường làm nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn và đã có những cán bộ, chiến sĩ hy sinh tính mạng để cứu người, tài sản của Nhà nước và Nhân dân.


   Khi đại dịch Covid-19 bùng phát, Bộ đội Biên phòng duy trì thường xuyên trên 1.600 tổ chốt, với hơn 10.000 cán bộ, chiến sĩ không kể ngày, đêm, thời tiết vô cùng khắc nghiệt vùng biên giới, căng mình làm nhiệm vụ ngăn ngừa người nhập cảnh trái phép, phòng lây lan dịch bệnh. Cán bộ, chiến sĩ các đơn vị nhường doanh trại để phục vụ nhân dân đến cách ly bảo đảm tận tình, chu đáo. Cán bộ làm công tác khoa học của Học viện Quân y chạy đua với thời gian với tinh thần chỉ đạo “chống dịch, như chống giặc”, đã nghiên cứu thành công bộ Kít xét nghiệm và đang nỗ lực hoàn thiện việc nghiên cứu và sản xuất Vắc xin ngừa Covid-19, góp phần hạn chế tổn thất do dịch bệnh gây ra.


   Trong 5 năm qua, toàn quân tổ chức vận động đóng góp quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” với số tiền hơn 525 tỉ đồng; xây tặng 4.334 căn nhà tình nghĩa với số tiền hơn 306 tỉ đồng; tặng 3.558 sổ tiết kiệm với số tiền hơn 10 tỉ đồng; phụng dưỡng thường xuyên 2.867 Bà mẹ Việt Nam anh hùng... Những việc làm thiết thực đó đã tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết quân dân, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, Quân đội, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, xây dựng cơ sở địa phương ngày càng vững mạnh, giữ vững và phát huy phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.


   5 năm qua, toàn quân triển khai thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong quân đội đã thấm sâu vào trong nhận thức tư tưởng và hành động của mỗi cán bộ, chiến sĩ và trở thành việc làm thường xuyên, đi vào nền nếp. Việc tổ chức thực hiện Chỉ thị số 05 được gắn với phong trào thi đua quyết thắng, đặc biệt là Cuộc vận động phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới, qua đó xuất hiện nhiều mô hình mới, cách làm sáng tạo, hiệu quả của từng cơ quan, đơn vị tiêu biểu, như “mỗi ngày học một lời Bác Hồ dạy”, “trên làm gương mẫu mực, dưới tích cực làm theo”... và ngày càng nhiều điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt”, tạo sự lan tỏa trong toàn quân, toàn quốc. Những kết quả học Bác để “Phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” đã góp phần quan trọng vào xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng được nâng lên. Bản chất cách mạng, truyền thống vẻ vang của quân đội được giữ vững và phát huy, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” tiếp tục tỏa sáng, là điểm tựa tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu. Trước diễn biến phức tạp của tình hình, toàn quân luôn đoàn kết, thống nhất cao, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.


     VÌ BÌNH YÊN CUỘC SỐNG, VÌ HẠNH PHÚC NHÂN DÂN


   Triển khai thực hiện việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; phong trào “CAND học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy”; phong trào thi đua “Vì an ninh Tổ quốc” và Cuộc vận động “ Xây dựng phong cách người Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn vì Nhân dân phục vụ”, các chiến sỹ công an đã đưa việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành công việc thường xuyên của cán bộ, đảng viên trong đơn vị.


   Đây cũng là một trong những nhân tốt góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh, giúp lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy lập nhiều thành tích, chiến công trong những năm qua. Bình quân hàng năm lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy đã phát hiện, khám phá thành công trên 20.000 vụ, bắt giữ hơn 30.000 đối tượng phạm tội về ma túy, thu giữ số lượng lớn ma túy, vũ khí, phương tiện, tài sản liên quan đến hoạt động phạm tội, trong đó có nhiều chuyên án đặc biệt lớn xuyên quốc gia, thu giữ số lượng ma túy tại chỗ hơn 1 tấn ma túy tổng hợp, 1.000 bánh heroin.


   Đại tá Vũ Văn Hậu, Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Bộ Công an chia sẻ, mặc dù cuộc chiến đấu với tội phạm ma túy đầy gian khổ, hy sinh nhưng cán bộ chiến sỹ cơ quan Cục không có trường hợp nào sai phạm liên quan đến ma túy, toàn lực lượng cũng rất ít trường hợp sai phạm liên quan đến ma túy. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Sáu điều Bác Hồ dạy CAND đã hun đúc sức mạnh, ý chí, niềm tin và quyết tâm lớn của CBCS lực lượng phòng chống ma túy trong cuộc chiến đấu “không khoan nhượng với tội phạm ma túy”.


   Khi được hỏi, cội nguồn sức mạnh, niềm tin và chiến thắng của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy có từ đâu? Tại sao cuộc chiến đấu với tội phạm ma túy đầy khó khăn – gian khổ - hy sinh mà các chiến sỹ không hề nao núng, không gục ngã trước bao đòn tấn công hiểm độc của tội phạm”, Đại tá Vũ Văn Hậu chỉ cười mà nói: “Đã có nhiều cách lý giải mang tính hệ thống cả về lý luận và thực tiễn, còn tôi từ thực tiễn chiến đấu chỉ xin nói về một vấn đề tựu trung cô đọng nhất, đó là nhân tố con người, sức sống hạt nhân của nó chính là bản lĩnh của người chiến sĩ Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy”.


   Theo Đại tá, trong hàng ngàn chuyên án đấu tranh với tội phạm về ma túy đều thể hiện rất rõ nét đặc trưng này, đó là: Trong khó khăn, gian khổ khơi nguồn sáng tạo, chia sẻ yêu thương, khi đối mặt nguy hiểm hy sinh được nâng tình đồng đội, tinh thần đoàn kết dũng cảm được lan tỏa, không có lực lượng nào gắn bó, đồng cảm sẻ chia như Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy. Tìm đến nhau, mời chào, đón tiếp nhau chỉ có bát cơm trắng với khúc cá kho nhưng đầy chân tình, ấm lòng nghĩa tình và sự tin cậy.


   Luôn đứng vững trước gian khó và vượt qua mọi đòn tấn công hiểm độc của tội phạm ma túy bởi đội ngũ, cán bộ, chiến sỹ lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy được tôi luyện trong chiến đấu, có sức đề kháng miễn nhiễm với tiêu cực và đặc biệt tấm gương của Bác Hồ về đạo đức, phong cách, 5 lời thề danh dự của người chiến sỹ Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy vang lên trong ngày tuyên thệ gia nhập lực lượng là nguồn năng lượng vô tận giúp cho họ sẵn sàng hy sinh cả mạng sống, lao vào trận chiến.


   “Quan trọng hơn cả, trong mỗi trận đánh, mỗi chuyên án, người chiến sỹ Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy luôn vững tin vì được sống trong tình đồng đội; tướng, sỹ cùng ra trận vì bình yên cuộc sống, vì hạnh phúc của Nhân dân. Đó là động lực trực tiếp thôi thúc chúng tôi hành động, chắp cánh nâng tầm suy nghĩ, là kim chỉ nam cho mọi hành động của người chiến sĩ Cảnh sát điều tra tội phạm ma túy” – Đại tá Vũ Văn Hậu cho biết.


   Có thể khẳng định, từ trong phong trào học tập và làm theo Bác, đã xuất hiện nhiều tấm gương tập thể, cá nhân tiên tiến, điển hình, thực sự có sức lan tỏa trong xã hội, khơi dậy tình cảm, động lực, tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc và mong muốn cống hiến, phụng sự đất nước trong mọi tầng lớp xã hội, cổ vũ toàn thể nhân dân ta kiên định, hăng hái, phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.


   Phát biểu tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII, triển khai Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XIII về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh", Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, mỗi tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là "những bông hoa đẹp", đang từng ngày vun góp, tạo ra "rừng hoa đẹp" cho đất nước.


   Có rất nhiều “những bông hoa đẹp” trong lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, nhưng đều tựu chung lại ở điểm: Học Bác để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì nhân dân phục vụ. Mỗi tập thể, mỗi cá nhân tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, nêu gương sáng, dẫn dắt, nhân rộng để mọi người noi theo, cùng tiến bộ, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh./.

CHUẨN BỊ KỸ CHO VIỆC NÂNG CẤP QUAN HỆ VIỆT NAM-HÀN QUỐC

 


   Sáng 23-6, đồng chí Vương Đình Huệ, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội, đã hội đàm trực tuyến với Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Park Byeong Seug. Trước đề nghị của Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ khẳng định, Việt Nam sẵn sàng cùng Hàn Quốc đưa quan hệ hai nước lên tầm cao mới.


   Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh, Việt Nam hết sức coi trọng và mong muốn phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị với Hàn Quốc, luôn coi Hàn Quốc là đối tác quan trọng, lâu dài và là một trong những đối tác ưu tiên hàng đầu trong quan hệ quốc tế của Việt Nam. Việt Nam đánh giá rất cao và tin tưởng, với chính sách hướng Nam mới của Hàn Quốc sẽ tạo cơ hội lớn cho việc tăng cường hơn nữa quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam - Hàn Quốc.


   Trước đề nghị của Chủ tịch


Quốc hội Hàn Quốc về việc nâng cấp quan hệ hai nước lên Đối tác chiến lược toàn diện, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ khẳng định, Việt Nam sẵn sàng cùng Hàn Quốc đưa quan hệ hợp tác lên tầm cao mới; đề nghị Bộ Ngoại giao và các cơ quan hữu quan của hai nước tiếp tục xác định rõ nội hàm, mục tiêu cụ thể cần đạt được sau khi nâng cấp quan hệ để hai nước đưa ra những cam kết cụ thể, tạo thuận lợi cho việc nâng cấp quan hệ, nhất là khi hai nước đang hướng tới dấu mốc rất quan trọng kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước vào năm 2022.


   Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ bày tỏ vui mừng khi mặc dù dịch bệnh tác động rất nặng nề nhưng quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư song phương vẫn rất tích cực, là một trong những động lực dẫn dắt các mối quan hệ khác trong quan hệ hai nước. Trong điều kiện hiện nay, các nhà đầu tư, nhất là những doanh nghiệp hàng đầu Hàn Quốc vẫn coi Việt Nam là thị trường đầu tư hấp dẫn và đang tiếp tục đầu tư mạnh mẽ vào Việt Nam.


   Hai nhà lãnh đạo Quốc hội đều nhận thấy, việc cân bằng cán cân thương mại là một trong những yếu tố quan trọng trong quan hệ giữa hai nước. Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc cũng cho biết, đối với Hàn Quốc, Việt Nam là một trong những đối tác quan trọng và Hàn Quốc cũng là đối tác hợp tác lớn thứ hai của Việt Nam. Khoảng hơn 8.000 doanh nghiệp Hàn Quốc đang hoạt động tại Việt Nam. Hiện, Hàn Quốc tiếp tục trao đổi công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam. Bên cạnh hoạt động của các tập đoàn lớn như Samsung, sắp tới, LG sẽ mở trung tâm nghiên cứu tại Việt Nam.


   Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đề nghị, hai bên tiếp tục tăng cường kết nối hai nền kinh tế trên cơ sở các hiệp định thương mại tự do đã được ký kết và tiếp tục thúc đẩy thương mại nhằm bổ sung thế mạnh cho nhau; mong Hàn Quốc tạo thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam, nhất là nông sản, vào Hàn Quốc để sớm khắc phục tình trạng mất cân bằng cán cân thương mại song phương, hướng tới mục tiêu thương mại song phương đạt 100 tỷ USD; đồng thời hoan nghênh Samsung đầu tư trung tâm nghiên cứu phát triển tại Hà Nội, quan tâm chuỗi cung ứng công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam, đây là hướng tốt để thúc đẩy kim ngạch thương mại hai bên.


   Một lần nữa, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ khẳng định Quốc hội, Chính phủ Việt Nam đánh giá cao vai trò, vị trí của các nhà đầu tư Hàn Quốc; sẽ tiếp tục tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Hàn Quốc khắc phục khó khăn, vướng mắc để đầu tư lâu dài và thành công tốt đẹp tại Việt Nam.


   Nhân dịp này, Chủ tịch Quốc hội cảm ơn Hàn Quốc đã hỗ trợ Việt Nam trong công tác phòng, chống dịch Covid-19, gần đây đã trao tặng 40 máy đo thân nhiệt từ xa với công nghệ hiện đại nhất. Hoan nghênh hai nước đã ký gia hạn Biên bản ghi nhớ hợp tác về cử lao động và tạo điều kiện cho người lao động Việt Nam sang làm việc tại Hàn Quốc. Chủ tịch Quốc hội đề nghị các nước cần tích cực hợp tác thông qua cơ chế Covax, đảm bảo chiến lược vaccine của mỗi nước; hai nước xem xét việc việc trao đổi chuyên gia, cũng như nghiên cứu để thí điểm hình thức du lịch hay các hoạt động khác trên cơ sở hộ chiếu vaccine thời gian tới.


   Tại hội đàm, hai Chủ tịch Quốc hội cùng cho rằng, hai bên cần tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Quốc hội hai nước và hai nước thông qua các biện pháp cụ thể như: Thường xuyên duy trì chuyến thăm, tiếp xúc cấp cao và các cấp bằng các hình thức phù hợp; tạo điều kiện để các địa phương và người dân hai nước tăng cường hợp tác, giao lưu; tích cực tổ chức các hoạt động thiết thực kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ hợp tác song phương, trong đó có các hoạt động trao đổi, đối thoại giữa các cơ quan của Quốc hội hai nước.


   Hai nhà lãnh đạo Quốc hội cùng khẳng định, hai nước cần tiếp tục tăng cường giao lưu nhân dân, trong đó, gia đình đa văn hóa là tài sản quý của hai nước, là cầu nối trong mối quan hệ Việt - Hàn, nên cần phải bảo vệ, tạo điều kiện hỗ trợ.


   Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đề nghị, hai bên cần tiếp tục tăng cường hợp tác trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, giáo dục. Nhấn mạnh, Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam dưới sự dẫn dắt của Huấn luyện viên Park Hang-seo đã có thành tích giành được tấm vé quan trọng tham gia Vòng loại thứ 3 World Cup 2022 khu vực châu Á, Chủ tịch Quốc hội cho rằng, đây là biểu tượng, hình mẫu trong việc giao lưu văn hóa và vai trò của Huấn luyện viên Park Hang-seo rất đặc biệt trong việc thúc đẩy giao lưu nhân dân.


   Hai bên tiếp tục tăng cường hợp tác, chia sẻ trong công tác lập pháp, nhất là hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo điều kiện cho thương mại và đầu tư, tích cực ủng hộ vai trò của nhau tại các diễn đàn đa phương cũng như cơ chế hợp tác nghị viện quốc tế nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của nhau và vì mục tiêu phát triển con người, góp phần giữ gìn, bảo vệ môi trường hòa bình an ninh khu vực và trên toàn thế giới.


   Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ khẳng định, Việt Nam luôn phát huy vai trò là thành viên có trách nhiệm và tích cực đóng góp cho các vấn đề hòa bình, ổn định phát triển toàn cầu, trong đó có nỗ lực thúc đẩy duy trì hòa bình trên bán đảo Triều Tiên. Đồng thời mong muốn, Hàn Quốc ủng hộ Việt Nam hoàn thành tốt vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ./.

Thứ Bảy, 19 tháng 6, 2021

Nghệ An: Sở Y tế đề nghị Công an điều tra việc tiết lộ thông tin phòng chống Covid-19



Trong thời gian qua, trên các trang mạng xã hội có đăng bệnh án, kết quả xét nghiệm bệnh nhân Covid-19 vi phạm Luật khám chữa bệnh.

Ngày 18/6, Sở Y tế Nghệ An có văn bản số 2395/SYT-VP về việc đề nghị điều tra việc tiết lộ thông tin về phòng chống dịch Covid-19 gửi Công an tỉnh Nghệ An.

Văn bản nêu rõ: Trong thời gian qua, trên các trang mạng xã hội như Facebook, Zalo ...có đăng bệnh án, kết quả xét nghiệm bệnh nhân Covid-19, điều đó là vi phạm Luật khám chữa bệnh, đặc biệt việc “rò rỉ”, cung cấp thông tin chưa chính thống trong công tác phòng chống dịch bệnh, xét nghiệm Covid-19 đã làm cho nhân dân hoang mang và ảnh hưởng đến công tác phòng chống dịch bệnh của tỉnh.

Để đảm bảo việc thực hiện nghiêm túc Luật khám chữa bệnh góp phần thực hiện tốt công tác phòng chống dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh, Sở Y tế đề nghị Công an tỉnh Nghệ An điều tra và xử lý nghiêm theo quy định đối với các đơn vị, cá nhân vi phạm Luật khám chữa bệnh, đặc biệt là vi phạm việc cung cấp, chia sẻ kết quả xét nghiệm, bệnh án liên quan đến bệnh nhân Covid-19./.



NĂM 2021 SẼ TỔ CHỨC HAI ĐỢT THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

 



   Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Hữu Độ vừa có văn bản gửi Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc tổ chức thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2021.


   Nội dung văn bản nêu rõ: Trước tình hình dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tổ chức đợt thi thứ 2 kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2021 cho đối tượng thí sinh không thể tham dự kỳ thi vào ngày 7 và 8-7-2021 do bị ảnh hưởng của dịch Covid-19.


   Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo sở giáo dục và đào tạo và các sở, ngành liên quan của địa phương tăng cường tuyên truyền chủ trương tổ chức kỳ thi của Bộ Giáo dục và Đào tạo để tạo sự đồng thuận của xã hội; quán triệt thí sinh, người tham gia tổ chức thi nghiêm túc chấp hành các quy định về phòng, chống dịch của ngành y tế và hạn chế đến những nơi không thật cần thiết.


   Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đề nghị các địa phương nắm chắc diễn biến của dịch để triển khai tổ chức kỳ thi tại địa phương phù hợp với thực tế, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho thí sinh và những người tham gia tổ chức thi.


   Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị các địa phương chuẩn bị chu đáo và tổ chức tốt đợt thi vào ngày 7 và 8-7-2021 cho các thí sinh không ở những nơi bị phong tỏa hoặc thực hiện cách ly xã hội theo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19 và các thí sinh không thuộc nhóm đối tượng F0, F1 và F2 theo phân loại của ngành Y tế.


   Các địa phương cần lưu ý thực hiện nghiêm túc các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, ưu tiên xét nghiệm, tiêm chủng vaccine phòng Covid-19 cho những người tham gia tổ chức kỳ thi; bố trí điểm thi dự phòng và các phòng thi dự phòng ở mỗi điểm thi để sử dụng khi cần thiết.


   Các địa phương cập nhật đầy đủ tình hình thí sinh bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 không thể dự thi vào ngày 7 và 8-7-2021 và sẽ tham dự đợt thi thứ 2, báo cáo Bộ Giáo dục và Đào tạo trước ngày 5-7-2021./.

“BẤT TUÂN DÂN SỰ” HAY LÀ CHIÊU TRÒ KÍCH ĐỘNG, CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG VÀ CƠ HỘI CHÍNH TRỊ




   Thực tiễn tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới cũng như tại  Việt Nam cho thấy, các thế lực phản động, thù địch đã sử dụng chiêu bài “bất tuân dân sự” để tiến hành các hoạt động chống phá, tấn công nhằm làm thay đổi tình hình chính trị của quốc gia. Thủ đoạn chống phá dưới chiêu bài “bất tuân dân sự” là nguồn gốc thai nghén các cuộc “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”, bạo loạn lật đổ chính quyền… tại không ít nơi trên thế giới, tạo ra những hệ quả vô cùng nghiêm trọng, những hậu quả khôn lường cho an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.


     BẤT TUÂN DÂN SỰ - GÓC NHÌN, QUAN ĐIỂM VÀ  MỘT SỐ BIỂU HIỆN BIẾN TƯỚNG


   Thuật ngữ “bất tuân dân sự” lần đầu tiên xuất hiện trong tập tiểu luận của Hen-ri Đây-vít Thơ-râu, nhà văn, nhà triết học người Mỹ, người bị chính quyền bang Ma-sa-chu-sét bắt do hành vi không đóng thuế vào cuối tháng 7 năm 1846, với nhan đề “Về bổn phận bất tuân dân sự” vào tháng 5-1849. Quan điểm của Thơ-râu sau đó được phát triển bởi một số học giả khác, chẳng hạn Gin-Sáp, Giáo sư chính trị học tại trường Đại học Massachusetts Dartmouth (Mỹ).


   Khái niệm bất tuân dân sự đã phát triển trong một thời gian dài, được rút ra từ các giai đoạn lịch sử khác nhau và từ các nền văn hóa khác nhau. Đã có nhiều tác giả nghiên cứu, đưa ra quan điểm, cách nhìn để nhận diện bất tuân dân sự. Theo Giôn-Ron, nhà triết học chính trị nổi tiếng của Mỹ trong thế kỷ XX, định nghĩa bất tuân dân sự là một hành động công khai, bất bạo động, triệt để nhưng có tính chính trị trái với luật pháp nhằm mục đích thay đổi luật pháp hoặc chính sách. Hu-gô A-đam Bê-đâu, Giáo sư triết học của Đại học Tufts (Mỹ) định nghĩa bất tuân dân sự là một hành động bất hợp pháp, được thực hiện một cách công khai, không mang tính bạo lực và thực hiện một cách cố ý, trong khuôn khổ pháp quyền và với ý định phản kháng hoặc phản đối một số luật, chính sách hoặc quyết định của chính phủ hoặc một số công chức của chính phủ. Ki-li và Ba-mu-lơ định nghĩa bất tuân dân sự là một hành động có chủ ý, công khai và bất bạo động vi phạm luật mà người đó phải chịu trách nhiệm và chế tài. Xờ-mít quan niệm rằng bất tuân dân sự là một cuộc phản đối công khai, bất hợp pháp và mang tính chính trị được thực hiện chống lại nhà nước hoặc chính sách. Sen-đơn trong cuốn Bách khoa toàn thư về tư tưởng chính trị định nghĩa bất tuân dân sự là bất tuân hoặc vi phạm pháp luật vì các lý do đạo đức, tôn giáo hoặc các lý do khác, bởi một cá nhân hoặc một nhóm có tổ chức.


   Bất tuân dân sự có nhiều hình thức và cách biểu hiện khác nhau. Ví dụ, có cách tiếp cận cho rằng bất tuân dân sự có 5 hình thức biểu hiện: Một là, tuần hành muối do Ma-hát-ma Gan-đi lãnh đạo (dẫn đầu đoàn 78 người đi bộ trong 24 ngày để phản đối chính sách độc quyền muối do chính quyền Anh áp đặt); hai là, chiến dịch Extremadura  - một phong trào cải cách ruộng đất ở Tây Ban Nha; ba là, tuần hành ủng hộ và phong trào bất di chuyển ở Mỹ; bốn là, loại bỏ các doanh nghiệp không mong muốn (phong trào chống toàn cầu hóa ở Pháp); năm là, phong trào vận động không đóng thuế ở Luân đôn năm 1990.


   Mặc dù là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ “bất tuân dân sự”, nhưng ở thời điểm ra đời, tác phẩm của Hen-ri Đây-vít Thơ-râu không gây được ảnh hưởng. Tuy nhiên, sang thế kỷ 20, tư tưởng về một cuộc “cách mạng hòa bình” của Thơ-râu được một số nhà hoạt động chính trị phát triển thành phương pháp đấu tranh bất bạo động như phong trào “Satyagraha” của Ma-hát-ma Gan-đi đấu tranh giành độc lập dân tộc cho Ấn Độ từ thực dân Anh (năm 1947); phong trào đấu tranh chống phân biệt chủng tộc ở Mỹ của mục sư Mác-tin Lu-thơ Kinh (thập niên 60 thế kỷ 20); phong trào đấu tranh chống phân biệt chủng tộc (chủ nghĩa A-pác-thai) ở Nam Phi của Nen-xơn Man-đê-la... Đặc biệt, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chiến lược “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc ra đời với tư tưởng chủ đạo là chuyển cuộc đấu tranh vào bên trong các nước xã hội chủ nghĩa. Từ đó, chiêu bài “bất tuân dân sự” đã bị chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế lợi dụng và từng bước trở thành một phương thức, thủ đoạn nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với các phương thức, thủ đoạn khác của chiến lược “diễn biến hòa bình”. Các cuộc “cách mạng nhung” ở Tiệp Khắc và Cộng hòa Dân chủ Đức; “cách mạng ca hát” ở các nước vùng Ban-tích (thuộc Liên Xô) vào những năm cuối thế kỷ XX; các cuộc “cách mạng màu” ở một số nước trong không gian hậu Xô-viết; “cách mạng hoa nhài” (“Mùa xuân Ả Rập”) ở một số nước Bắc Phi, Trung Đông cuối năm 2010, đầu năm 2011; phong trào biểu tình nhằm lật đổ Chính phủ Bô-li-va ở Vê-nê-xu-ê-la (từ năm 2014); phong trào “cách mạng dù” của sinh viên vùng lãnh thổ Hồng Kông (Trung Quốc) năm 2014, các cuộc biểu tình phản đối việc sửa đổi Dự luật dẫn độ ở vùng lãnh thổ Hồng Kông (Trung Quốc) vào các năm 2019 và 2020... đều có dấu ấn của thủ đoạn kích động bất tuân dân sự, nhằm gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, gây trở ngại đến hoạt động công quyền, thực thi công lý, gây ra những hiểm họa khôn lường, thậm chí khủng hoảng toàn diện, sâu sắc cho nhiều vùng lãnh thổ và quốc gia trên thế giới.


   Ở Việt Nam, hoạt động lợi dụng “bất tuân dân sự” đã diễn ra từ nhiều năm trước, có nguy cơ trở thành “phong trào” gây nguy hại trực tiếp đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội nếu không được nhận diện và đấu tranh kịp thời.


   Các thế lực phản động, thù địch đã tiến hành nhiều hoạt động lợi dụng danh nghĩa dân chủ, phát động cái gọi là bất tuân dân sự để chống đối chính quyền, gây trở ngại cho hoạt động công quyền với nhiều hoạt động dưới nhiều dạng thức và hành động như lợi dụng việc Quốc hội thông qua Luật An ninh mạng, dự án Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt tại một số tỉnh, thành phố trong cả nước, các đối tượng phản động, thù địch đã kích động, lôi kéo người dân tham gia tuần hành, biểu tình, chống người thi hành công vụ, đập phá tài sản các trụ sở chính quyền, gây thiệt hại lớn về tài sản, kinh tế, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; vụ đình công phản đối Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 diễn ra tại một số tỉnh, thành phố; lợi dụng phản đối trạm BOT Cai Lậy ở tỉnh Tiền Giang năm 2017, trong đó một số lái xe quá khích đã đưa xe đến giữa trạm rồi bỏ đi; đốt phá Đông Đô Đại Phố ở tỉnh Bình Dương; lợi dụng sự kiện Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 tại thềm lục địa Việt Nam tháng 5-2014 để kích động biểu tình, tuần hành, đập phá các doanh nghiệp ở 8 tỉnh, thành phố; khoét sâu, thêm tình tiết và thổi phồng các vấn đề nóng như sự cố môi trường, lũ lụt trên địa bàn một số tỉnh để kích động người dân gây mất an ninh, trật tự, đập phá tài sản; lợi dụng chống tiêu cực, tham nhũng, cưỡng chế đất đai, giải phóng mặt bằng để kích động hành vi bất tuân dân sự; lợi dụng tôn giáo để thực hiện mưu đồ xấu, công kích, chống phá... Các thế lực phản động, thù địch còn xuyên tạc trắng trợn rằng, việc xử lý những người vi phạm pháp luật là “đàn áp” những người biểu tình ôn hòa, yêu nước, kêu gọi đưa vấn đề ra Liên hợp quốc và kêu gọi các tổ chức quốc tế vào cuộc; xuyên tạc trắng trợn rằng các đạo luật trên là vi hiến, đe dọa nghiêm trọng cuộc sống người dân. Nham hiểm hơn, các thế lực phản động, thù địch còn kêu gọi người dân không chỉ dùng Facebook mà dùng nhiều mạng xã hội khác để “đấu tranh”...


   KHÔNG THỂ BÁC BỎ MỘT CHÂN LÝ HIỂN NHIÊN RẰNG, XÂY DỰNG PHÁP LUẬT LÀ CÔNG VIỆC NỘI BỘ CỦA TỪNG QUỐC GIA, XUẤT PHÁT TỪ NHU CẦU, LỢI ÍCH CỦA TỪNG QUỐC GIA


   Cần khẳng định rằng, dưới góc độ một nhà nước pháp quyền, một khi đạo luật đã được ban hành thì đạo luật đó phải được tôn trọng và thực thi. Không một quốc gia nào trên thế giới lại dung túng cho những hành vi lợi dụng quyền tự do, dân chủ, không một quốc gia nào lại cổ xúy và bảo vệ những hành vi vi phạm pháp luật, gây trở ngại cho hoạt động công quyền, thực thi công lý. Đồng thời, hậu quả do việc lợi dụng “bất tuân dân sự” để lại rất nặng nề, kéo dài không chỉ ảnh hưởng về kinh tế - xã hội, mà còn gây ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất lòng tin của người dân đối với chính quyền. Mặt khác, việc xây dựng và thực thi pháp luật là công việc nội bộ của từng quốc gia và phải phù hợp với điều kiện của từng quốc gia. Không ai có thể phản bác điều hiển nhiên này. Nhiều nhà tư tưởng nổi tiếng thế giới cũng chỉ rõ việc nghiên cứu về quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật phải căn cứ vào đặc điểm, điều kiện của từng quốc gia, khu vực, dân tộc. Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, Mông-te-xki-ơ, nhà bình luận xã hội và tư tưởng chính trị nổi tiếng người Pháp, chỉ rõ: “Khi tôi nghiên cứu về con người, tôi đã đi đến kết luận rằng, những sự khác biệt của pháp luật và của đạo lý loài người không phải do họ tự vẽ ra một cách tùy tiện. Các đạo luật phải nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với các đặc điểm của dân tộc vì dân tộc đó mới cần làm ra những đạo luật này. Và chỉ có những trường hợp rất đặc biệt luật của dân tộc này mới có thể thích ứng với dân tộc khác. Hê-ghen, nhà triết học vĩ đại người Đức, cũng khẳng định điều tương tự: “Mỗi dân tộc có chế độ nhà nước của mình; chế độ nhà nước Anh quốc là của người Anh; và nếu như người ta tự dưng muốn chuyển cho người Phổ thì điều đó cực kỳ vô lý như là quyết định chuyển Nhà nước Phổ cho người Thổ Nhĩ Kỳ. Mỗi một chế độ nhà nước chỉ là sản phẩm, là sự thể hiện tinh thần của riêng một dân tộc và của trình độ phát triển của ý thức dân tộc của họ mà thôi. Sự phát triển đó đòi hỏi một sự vận động liên tục và nhiều bước trong đó không một bước nào có thể bị xóa bỏ”. Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 khẳng định: “Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa”. Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 khẳng định: “1. Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa...”.


   Vì lẽ đó, việc xác định và lựa chọn ban hành đạo luật nào là quyền năng riêng của từng quốc gia. Ban hành Luật An ninh mạng là một ví dụ điển hình. Cần thấy rằng, luật (pháp luật) về an ninh mạng luôn được quan tâm không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế trên toàn thế giới... Luật An ninh mạng rất cần thiết không chỉ để bảo vệ an ninh quốc gia mà còn nhằm bảo vệ người dân, để có môi trường xã hội phát triển lành mạnh trên không gian mạng. Các quy định trong dự thảo Luật An ninh mạng của Việt Nam được chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng, với sự tham gia đóng góp ý kiến của các bộ, ngành chức năng, cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp, nhiều chuyên gia, tổ chức, tập đoàn kinh tế, viễn thông nước ngoài lớn (như Facebook, Google, Apple, Amazon, Hội đồng kinh doanh Mỹ - ASEAN, Hiệp hội điện toán đám mây châu Á; các cơ quan đại diện nước ngoài như Mỹ, Ca-na-đa, Ô-xtrây-li-a, Nhật Bản... và ý kiến rộng rãi của quần chúng nhân dân; sự thẩm tra của Ủy ban Quốc phòng và An ninh, sự chỉnh lý của các đại biểu Quốc hội qua 2 kỳ họp thứ 4 và thứ 5, Quốc hội khóa XIV. Các quy định của Luật An ninh mạng cũng phù hợp với pháp luật các nước và thông lệ quốc tế. Quy định về tội phạm mạng trong Luật An ninh mạng không phải là điều xa lạ gì, bởi lẽ không chỉ Việt Nam mà nhiều quốc gia cũng quy định về tội phạm mạng. Theo thống kê của Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), đã có đến 154 quốc gia trong tổng số 194 quốc gia thành viên UNCTAD ban hành luật pháp về tội phạm mạng. Các quy định của Luật An ninh mạng về bảo vệ thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng cũng phù hợp với xu hướng chung trên toàn thế giới về bảo vệ thông tin cá nhân. Nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đã ban hành Luật về bảo vệ thông tin cá nhân dưới nhiều tên gọi khác nhau như Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, Luật Bảo vệ dữ liệu, Luật Bảo vệ thông tin cá nhân, Luật về bảo vệ các mối quan hệ không công khai... Theo thống kê của UNCTAD, 128 trong tổng số 194 quốc gia thành viên của UNCTAD đã ban hành luật để bảo đảm việc bảo vệ dữ liệu và quyền riêng tư. An ninh quốc gia cũng là một ngoại lệ trong các điều ước quốc tế quan trọng về thương mại quốc tế. Điều này thể hiện tầm quan trọng và ý nghĩa sống còn của vấn đề an ninh quốc gia đối với tất cả các nước trên thế giới.


LẬT TẨY CÁC HÀNH ĐỘNG LỢI DỤNG QUYỀN TỰ DO, DÂN CHỦ ĐỂ “BẤT TUÂN DÂN SỰ”, VI PHẠM PHÁP LUẬT, CỔ XÚY CHO VIỆC GÂY TRỞ NGẠI ĐẾN HOẠT ĐỘNG CÔNG QUYỀN, THỰC THI CÔNG LÝ


   Không thể bác bỏ một điều hiển nhiên rằng, việc các thế lực phản động, thù địch tìm mọi cách xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước ta từ nhiều phương diện khác nhau như xuyên tạc Luật An ninh mạng, xuyên tạc dự án Luật Đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt, lợi dụng việc phản đối một số chính sách, quy định pháp luật của Nhà nước ta một cách phi lý, thiếu căn cứ đã và đang là sự vi phạm nghiêm trọng pháp luật của Việt Nam, xâm hại quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội và từng người dân. Các đối tượng phản động, thù địch đã kích động người dân đập phá trụ sở chính quyền, gây cản trở giao thông, đốt phá tài sản của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, làm bị thương nhiều cán bộ thực thi nhiệm vụ, gây ngừng trệ hoạt động của các cơ quan chức năng, doanh nghiệp và người dân, xâm phạm nghiêm trọng đến pháp luật của Nhà nước, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân...


   Đối với dự thảo Luật Đơn vị hành chính  - kinh tế đặc biệt, mặc dù Quốc hội đã quyết định lùi thời hạn thông qua để có thời gian bổ sung, hoàn thiện, nhưng các thế lực phản động, thù địch vẫn tung thông tin xuyên tạc, kích động, đòi phải đưa vấn đề này ra trưng cầu ý dân toàn quốc theo Luật Trưng cầu ý dân năm 2015; thổi phồng rằng không thể chỉ dừng ở đấu tranh cho một vài đạo luật mà phải thực hiện đa nguyên, đa đảng theo mô hình dân chủ phương Tây; kích động các đợt biểu tình, tuần hành bằng những mỹ từ mị dân như “khơi dậy lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm công dân”, “nhiều người trong bộ máy cầm quyền thức tỉnh”...; thực hiện những chiêu trò mới như gây kẹt xe ở các đô thị, biểu tình trên mạng, hô hào các tổ chức phản động tổ chức biểu tình ở nước ngoài...


  Trước hết, cần thấy rõ rằng bất kỳ dự án luật nào cũng cần thực hiện đầy đủ quy trình xây dựng, ban hành. Các cơ quan có thẩm quyền xây dựng pháp luật của Việt Nam đều luôn tuân thủ quy trình đó, bảo đảm cao nhất sự tham gia của nhân dân góp ý xây dựng các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Bản thân Dự luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt cũng không nằm ngoài quy trình đó. Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, việc xây dựng, ban hành văn bản luật phải thông qua một quy trình rất chặt chẽ. Người dân có quyền được tiếp tục góp ý để Quốc hội hoàn thiện dự án Luật trên cơ sở góp ý của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các tổ chức thành viên khác của Mặt trận, các cơ quan, tổ chức khác, cá nhân, lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản và cơ quan, tổ chức có liên quan theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời việc góp ý kiến phải trên cơ sở tìm hiểu kỹ lưỡng dự thảo luật và có cơ sở khoa học, không tiếp tay cho những hành vi xuyên tạc, kích động, chống đối, phá hoại đất nước.


   Việc xây dựng, ban hành một đạo luật trước hết phải dựa trên lợi ích của quốc gia đó và phải có cơ sở, lập luận khoa học. Không phải tự nhiên mà đạo luật An ninh mạng được ban hành ở các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Một điều dễ nhận thấy là an toàn thông tin đang là vấn đề nổi cộm ở không chỉ ở Việt Nam, mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Theo số liệu từ Cục An toàn thông tin (Bộ Thông tin và Truyền thông), hơn 9.300 trang web tại Việt Nam bị tấn công trong năm 2019. Theo báo cáo International Privacy Day Report 2020 của Kaspersky, Việt Nam đứng thứ 9 trên toàn cầu về mức độ bị ảnh hưởng bởi phần mềm gián điệp, với 7.216 người dùng bị tấn công vào năm 2019. Theo số liệu thống kê được ghi nhận bởi hệ thống giám sát của hãng bảo mật Mỹ SonicWall, hầu hết các hình thức tấn công đều có xu hướng gia tăng trên toàn cầu trong năm 2018. Cụ thể, số lượng các tấn công bằng mã độc gia tăng trên toàn cầu trong ba năm liên tiếp. Theo Báo cáo rủi ro toàn cầu năm 2019 của Diễn đàn Kinh tế thế giới, các cuộc tấn công an toàn, an ninh mạng hiện nằm trong số những rủi ro hàng đầu trên toàn cầu. Trong năm 2019, hệ thống CyStack Attack Map ghi nhận 563.000 cuộc tấn công vào các trang web trên toàn cầu. 


   Thực tiễn các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đã chỉ ra một điều hiển nhiên rằng, việc hình thành các khu kinh tế đặc biệt luôn diễn ra và là hiện tượng phổ biến trên thế giới. Theo dữ liệu thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), trong vòng 30 năm, từ năm 1975 đến năm 2006, đã có sự tăng vọt số lượng SEZ và số lượng quốc gia có SEZ trên toàn thế giới. Nhiều quốc gia đã ban hành các luật riêng về khu kinh tế. Như vậy, việc hình thành các khu kinh tế đặc biệt trên thế giới không phải là hiện tượng ngẫu nhiên xuất hiện, mà đã có một quá trình hình thành lâu dài, với nhiều dạng thức khác nhau, được ghi nhận trong nhiều tài liệu của các tổ chức quốc tế lớn, và được quy định trong một đạo luật riêng biệt của quốc gia.


PHÁP LUẬT VIỆT NAM GHI NHẬN VÀ BẢO VỆ CÁC QUYỀN TỰ DO, DÂN CHỦ, NHƯNG KHÔNG DUNG THỨ CHO HÀNH VI LỢI DỤNG TỰ DO, DÂN CHỦ, “BẤT TUÂN DÂN SỰ” ĐỂ VI PHẠM PHÁP LUẬT, CHỐNG PHÁ ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC


   Các quyền tự do, dân chủ luôn là các quyền thiêng liêng, cần thiết cho cuộc sống, là một biểu hiện cho tiến bộ và là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Nhưng tự do chưa bao giờ và không bao giờ là tự do chung chung, tự do vô bờ bến. Điều này được thể hiện rõ nét trong pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Pháp luật Việt Nam chỉ hạn chế quyền tự do của những người lợi dụng pháp luật xâm hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, cộng đồng. Ví dụ, khoản 1, Điều 331 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Việc quy định chỉ hạn chế quyền tự do của những người lợi dụng pháp luật xâm hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, cộng đồng cũng phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Cụ thể là, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) đề cập cụ thể trong một số điều quy định về các quyền có thể chịu sự giới hạn (Điều 4, Điều 19). Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 đưa ra các giới hạn đối với quyền tự do ngôn luận theo đúng định nghĩa của nó (Điều 4, Điều 10, Điều 11).


   Nhằm ngăn chặn tình trạng lợi dụng quyền tự do ngôn luận để phát ngôn tiêu cực, thù địch trên in-tơ-nét, Ủy ban châu Âu (European Commission) đã ký Quy tắc ứng xử về chống lại lời nói có nội dung tiêu cực, thù địch bất hợp pháp trực tuyến với Google (YouTube), Facebook, Twitter và Microsoft năm 2016. Instagram, Google+, Dailymotion, Snap và Jeuxvideo.com sau đó đã tham gia Quy tắc này.


   Thông qua đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến việc bảo đảm sự tham gia của người dân vào các hoạt động của Nhà nước và xã hội, bảo đảm quyền giám sát, phản biện xã hội của các chủ thể. Nhà nước Việt Nam bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các chủ thể, ủng hộ phản biện xã hội chân chính để hoàn thiện chính sách, pháp luật, xây dựng xã hội thượng tôn pháp luật. Nhưng việc lợi dụng cái gọi là bất tuân dân sự để cổ xúy và bảo vệ những hành vi vi phạm pháp luật, cổ xúy cho việc gây trở ngại đến hoạt động công quyền cần phải được ngăn chặn, đẩy lùi. Nhiều quan điểm trên thế giới cũng chỉ rõ tính trái pháp luật của hành vi bất tuân dân sự, phản bác việc lợi dụng bất tuân dân sự để kích động các hành vi vi phạm pháp luật, gây trở ngại đến hoạt động công quyền. Pi-tơ Mai-ơ, Giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Wisconsin-Eau Claire (Mỹ), chỉ ra rằng bất tuân dân sự “gây ra mối đe dọa đối với nhà nước pháp quyền”. Trong một nghiên cứu trên một Tạp chí về luật của Mỹ, Ét-uốt Ma-rếc chỉ rõ: “Hành vi như vậy có thể được phân loại là bất tuân dân sự theo nghĩa là nó vi phạm một hệ thống luật có trật tự, nhưng nó cũng là hành vi không thể được bảo vệ bởi hiến pháp hoặc chế tài tư pháp bất kể mục đích của nó là gì hoặc sự bất công của các luật mà nó chống lại”. Trên một phân tích trên tờ Thời báo New York, Sác-lơ Phơ-ran-ken, nhà triết học người Mỹ, viết: “tôi có thể đúng khi nghĩ rằng một sắc lệnh chống đi bộ đường dài là một sự vi phạm không cần thiết đối với các quyền của tôi. Tuy nhiên, điều này không hợp lý khi tôi tổ chức một cuộc đình công khổng lồ trên những con phố tắc nghẽn giao thông trong một tuần”. Luật sư người Mỹ Mô-rít Lép-man, người được Tổng thống Mỹ Rô-nan Ri-gân trao tặng Huân chương Tự do Tổng thống vào năm 1981, dẫn lời Tổng thống Mỹ A-bra-ham Lin-côn, viết: “Mỗi người hãy ghi nhớ rằng vi phạm pháp luật là chà đạp lên máu mủ của cha mình, và xé bỏ hiến chương về quyền tự do của chính mình và con cái mình. Hãy để cho sự tôn kính pháp luật được hít thở bởi mỗi bà mẹ Mỹ đối với đứa con đang nói ngọng nựng nịu trong lòng mình; hãy để nó được giảng dạy trong các trường học, trong các chủng viện và trong các trường cao đẳng; hãy để nó được viết trong các sách bổ túc, sách chính tả, và trong các niên giám; hãy để nó được rao giảng từ bục giảng, được công bố trong các phòng lập pháp và được thực thi tại các tòa án”. Tòa án nhiều nước đều không cho phép hành vi bất tuân dân sự làm ảnh hưởng đến lợi ích chung. Phó Giáo sư luật Ri-sát Mô-lơ, Trung tâm Luật của Đại học Georgetown (Mỹ), dẫn lời của Chánh án thứ 11 của Tối cao Pháp viện Mỹ Sác-lơ Êvan Hu-gơ, viết: “duy trì cơ hội thảo luận chính trị tự do đến cùng để chính phủ có thể đáp ứng ý chí của người dân và những thay đổi có thể đạt được bằng các phương tiện hợp pháp... là một nguyên tắc cơ bản của hệ thống hiến pháp của chúng tôi”.


   Tóm lại, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn nhận thức rất rõ vai trò quan trọng, thiết yếu của các quyền tự do, dân chủ của người dân với ý nghĩa là một quyền thiết thân của con người, là động lực phát triển của đất nước. Tuy nhiên, không một quốc gia nào trên thế giới lại dung thứ các hành vi lợi dụng dân chủ, cổ xúy cho các hành vi vi phạm pháp luật, gây tổn hại đến trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước và của người dân. Nhận diện các biểu hiện lợi dụng “bất tuân dân sự” của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị để kích động, chống phá là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược trong điều kiện hiện nay, không chỉ góp phần thống nhất nhận thức trong toàn hệ thống chính trị và của từng người dân mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, từ đó chủ động trong việc triển khai có hiệu quả các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn./.