Trước năm 1988, chính quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau đó là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam có 3 chính đảng hoạt động hợp pháp là Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng Xã Hội Việt Nam và Đảng Dân Chủ Việt Nam. 3 Đảng phái này vừa đoàn kết thống nhất với nhau, cũng vừa là lực lượng phản biện xã hội mang tính xây dựng trong hệ thống chính trị ở Việt Nam. Đến năm 1988, với lý do đã kết thúc sứ mệnh lịch sử, Đảng Dân Chủ và Đảng Xã Hội tuyên bố tự giải thể và Đảng Cộng Sản Việt Nam là chính đảng hoạt động hợp pháp duy nhất ở Việt Nam.
*******************
1. ĐẢNG DÂN CHỦ VIỆT NAM:
Đảng Dân chủ Việt Nam là một chính đảng từng hoạt động hợp pháp tại Việt Nam trước năm 1988. Đảng Dân chủ Việt Nam là “chính đảng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản, trí thức yêu nước và tiến bộ Việt Nam“, thành lập ngày 30/06/1944, tên ban đầu là Việt Nam Dân chủ Đảng (theo cách viết Hán Văn lúc bấy giờ).
Tiền thân của Đảng Dân chủ Việt Nam là Tổng hội sinh viên Đại học Tổng hợp Hà nội năm 1940, sau các nhóm sinh viên yêu nước hợp nhất thành lập đảng. Đảng tham gia Việt Minh, Dương Đức Hiền tham gia Tổng bộ Việt Minh, sau đó lại tách ra và rồi lại tham gia Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam.
Trong Quốc hội khóa I năm 1946 đảng giành 46 ghế, do hai ông Đỗ Đức Dục và Tôn Quang Phiệt lãnh đạo. Đảng Dân chủ Việt Nam có số ghế cao thứ 2, chỉ sau Việt Minh. Đảng có 2 ghế trong Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam (Dương Đức Hiền, Cù Huy Cận) và 4 ghế trong chính phủ lâm thời đến tháng 3/1946 (Dương Đức Hiền, Cù Huy Cận, Vũ Trọng Khánh, Vũ Đình Hòe). Ở Nam bộ ban đầu các Đảng viên hoạt động như là nhóm Tân Dân chủ (Huỳnh Văn Tiểng lãnh đạo, năm 1945). Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ tháng 12 năm 1946, Đảng lại gia nhập Việt Minh.
Đảng kỳ của Đảng Dân chủ là một lá cờ màu xanh đậm với vòng tròn vàng ở trung tâm và có 5 ngôi sao xung quanh. 5 ngôi sao đại diện cho “sĩ-nông-công-thương-binh”. Hình tròn vàng thể hiện cho dân tộc Việt Nam da vàng. Tất cả được đặt trên nền “Màu xanh Dân chủ, sáng soi muôn đời”. Khẩu hiệu của Đảng là “Dân chủ - Đoàn kết - Phát triển”.
Từ năm 1954 đến 1975 đảng hoạt động tại miền Bắc Việt Nam (Đảng bộ tại miền Nam về hình thức tách ra năm 1961 vẫn lấy ngày thành lập năm 1944, thành lập Đảng Dân chủ tham gia Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam tới 1975), và từ 1975 đến 1988 Đảng Dân chủ Việt Nam lại thống nhất trên toàn Việt Nam. Vì một số lý do nội bộ, từ đầu năm 1976, Đảng Dân chủ Việt Nam không kết nạp đảng viên mới.
Tổng Thư ký là chức vụ cao nhất trong Đảng Dân chủ Việt Nam. Chức vụ Tổng Bí thư Đảng Dân chủ Việt Nam chi để Truy tặng cho ông Dương Đức Hiền, cố Tổng thư ký và là một trong các thành viên sáng lập của Đảng – mất năm 1963. Người giữ chức vụ Tổng Thư ký lâu nhất của Đảng Dân chủ Việt Nam là ông Nghiêm Xuân Yêm, giữ chức vụ từ năm 1958 đến khi giải thể vào năm 1988. (Trước đó là ông Hoàng Minh Chính – đến thập niên 1960, ông này bị khai trừ Đảng Dân chủ và tới năm 2006 ông Hoàng Minh Chính thành lập một đảng chống phá chính quyền ở hải ngoại cũng lấy tên Đảng Dân chủ Việt Nam)
Đảng viên Đảng Dân chủ Việt Nam nổi tiếng bao gồm nhiều tri thức, nhà khoa học, nhà thơ, nhà văn… nổi tiếng đương thời và nhiều người là Bộ trưởng trong chính phủ Việt Nam: Dương Đức Hiền, Nghiêm Xuân Yêm, Cù Huy Cận, Vũ Trọng Khánh, Vũ Đình Hòe, Trần Đăng Khoa, Huỳnh Văn Tiểng, Tôn Quang Phiệt…
Đến năm 1988, với lý do đã kết thúc sứ mạng lịch sử của mình, Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Dân chủ họp từ ngày 18 đến ngày 20/10/1988 đã ra tuyên bố giải thể Đảng. Một số Đảng viên chủ chốt của Đảng Dân chủ Việt Nam sau đó đã xin gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam..,..
2. ĐẢNG XÃ HỘI VIỆT NAM.
Đảng Xã hội Việt Nam là một đảng chính trị từng hoạt động hợp pháp ở Việt Nam. Đảng Xã hội Việt Nam tên mới thành lập là Việt Nam Xã hội Đảng (hồi đó tất cả đảng phái đều viết chữ Hán, theo ngữ pháp Hán) là một chính đảng của giới trí thức Việt Nam, thiên tả, xu hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng Xã hội lập ra dưới sự vận động của Mặt trận Việt Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương nhằm mục đích "tập hợp, đoàn kết mọi trí thức yêu nước và dân chủ".
Đảng Xã hội Việt Nam thành lập ngày 22 tháng 7 năm 1946, với tổng thư ký lần lượt Phan Tư Nghĩa, Nguyễn Xiển, với người bảo trợ chính trị là Võ Nguyên Giáp. Đảng có 24 ghế trong Quốc hội khóa I VNDCCH, tập hợp trong khối cánh tả. Một số thành viên như Hoàng Minh Giám, Phan Anh, Nguyễn Văn Huyên, Đặng Phúc Thông tham gia chính phủ Việt Nam. Ngay sau thành lập, Đảng Xã hội đã gia nhập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam. Trong Đảng Xã hội có một số đảng viên vốn cũng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Tiền thân của Đảng Xã hội là Liên minh XHCN ở Đông Dương trước thế chiến II, bao gồm cả các thành viên ở Pháp và Việt Nam, như là một đảng bộ của Đảng Xã hội Pháp.
Đảng Xã hội Việt Nam cùng với Đảng Lao Động Việt Nam (Đảng Cộng Sản Việt Nam) và Đảng Dân chủ đã là 3 đảng Hợp pháp trong chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (sau là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam) từ năm 1954 đến năm 1988. Đảng Xã hội Việt Nam cũng từng tham gia Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. Vì một số lý do nội bộ, sau năm 1975, Đảng không kết nạp thêm Đảng viên mới.
Chức vụ cao nhất trong Đảng là Tổng Thư ký Đảng Xã hội Việt Nam. Chức vụ thứ hai là Phó Tổng Thư ký Đảng. Tổng Thư ký Đảng Xã hội Việt Nam đầu tiên là cụ Phan Tư Nghĩa, nhiệm kỳ từ năm 1946 đến năm 1956. Tổng Thư ký Đảng Xã hội Việt Nam thứ hai và cuối cùng là cụ Nguyễn Xiển (từ năm 1946 đến năm 1956 là Phó Tổng Thư ký, từ năm 1956 đến năm 1988 là Tổng Thư ký). Cụ Hoàng Minh Giám là Phó Tổng Thư ký từ năm 1956 đến năm 1988. Ngoài ra, các Ủy viên Trung ương của Đảng Xã hội Việt Nam cũng là những bậc chí sĩ yêu nước nổi tiếng như Luật sư Phan Anh, Thiếu tướng – Bác Sĩ Đỗ Xuân Hợp, Kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện…
Với lý do đã kết thúc sứ mạng lịch sử của mình, Đại hội đại biểu Đảng Xã hội họp từ ngày 21 đến ngày 22 tháng 7 năm 1988 đã ra tuyên bố giải thể Đảng. Đảng Dân chủ cũng tuyên bố giải thể cùng năm 1988. Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng hợp pháp duy nhất tại Việt Nam từ năm 1988 tới nay.
Nguồn:Tìm hiểu về chiến tranh Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét