KỲ III: THẾ GIỚI VẪN “CHOẢNG” NHAU TRONG CƠN ĐẠI DỊCH
Hệt như trong Chiến tranh thế giới thứ nhất cách đây một thế kỷ, cùng với chiến tranh, đại dịch Cúm Tây Ban Nha lan rộng khắp Châu Âu và Bắc Phi, lan sang cả Châu Mỹ và Châu Á, loài người vẫn không quên đánh nhau giữa đại dịch. Mãi sau này, nó mới có tên là cúm H1N1 khi tái bùng phát bởi chủng virus cúm A/H1N1. Đại dịch này đã làm chết khoảng 20 triệu người (gấp 1,5 lần số lính chết trận của các bên trong chiến tranh) và ảnh hưởng tới hàng trăm triệu người khác. Sự việc ít được ghi chép trong lịch sử này đã khiến cho những người biết về nó đã đi đến nhận định rằng trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, chẳng có bên nào là bên thắng trận cả mà chính đại dịch mới là nhân tố khách quan quyết định thúc đẩy việc kết thúc chiến tranh.
Và đến ngày thứ 105 của dịch COVID-19, với 275.132 ca nhiễm và 11.377 ca tử vong vì COVID-19, trên thế giới đã hình thành “Nhóm G7 COVID-19” (ngoài Trung Quốc) gồm các nước có trên 100 ca tử vong. Đó là:
- Italia: 4.032 ca tử vong;
- Iran: 1.433 ca tử vong;
- Tây Ban Nha: 1.093 ca tử vong;
- Pháp: 450 ca tử vong;
- Mỹ: 275 ca tử vong;
-Anh: 177 ca tử vong.
- Hà Lan: 106 ca tử vong
(thống kê của WHO ngày 21-3-2020)
- Italia: 4.032 ca tử vong;
- Iran: 1.433 ca tử vong;
- Tây Ban Nha: 1.093 ca tử vong;
- Pháp: 450 ca tử vong;
- Mỹ: 275 ca tử vong;
-Anh: 177 ca tử vong.
- Hà Lan: 106 ca tử vong
(thống kê của WHO ngày 21-3-2020)
Trong số các quốc gia thuộc nhóm G7 COVID-19 này, có tới 4 quốc gia thuộc nhóm G7 kinh tế thế giới, là các nước được cho là có nền kinh tế phát triển nhất toàn cầu và 3 nước trong số đó là Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Và đến hôm nay (21-3-2020) thì chỉ cần có thêm gần 30 quốc gia nữa nhiễm dịch là thế giới sẽ có đầy đủ một “Liên Hợp Quốc COVID-19”.
Số ca bệnh COVID-19 thế giới tăng đồng biến với số lượng các công ty nộp đơn xin phá sản (trong đó có gồn 50 công ty sản xuất dâu đá phiến ở Mỹ), đồng biến với số người thất nghiệp và bán thất nghiệp ở nhiều quốc gia (trong đó có hơn 14 triệu người tại Mỹ). “Tăng trưởng” số ca bệnh COVID-19 cũng nghịch biến với giá cổ phiếu, giá dầu mỏ trên thế giới giảm mạnh. Giá cổ phiếu ở 4 thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới đều “thủng sàn” với mức âm, kèm theo đó là giá dầu mỏ lao dốc không phanh.
Cái gì đang chi phối truyền thông thế giới suốt hơn ba tháng qua ? Chiến sự Izlib, Syria ư? Chiến sự ở Nam Yemen ư ? Xung đột giữa hai chính phủ Libya mà bên nào cũng tự nhận là hợp pháp ư ? Hiệp định sơ bộ giữa Mỹ và phái Taliban ở Afghanistan ư ? Triều Tiên tiếp tục phóng “vật thể bay không xác định” (gọi đúng nghĩa là UFO) ra Biển Nhật Bản ư ?
Không ! Tất cả những thứ đó đều chìm nghỉm trước những thông tin về COVID-19. Ấy thế mà các nước lớn vẫn không quên choảng nhau xung quanh COVID-19 khi nó đang diễn ra. Vì sao vậy ?
Không ! Tất cả những thứ đó đều chìm nghỉm trước những thông tin về COVID-19. Ấy thế mà các nước lớn vẫn không quên choảng nhau xung quanh COVID-19 khi nó đang diễn ra. Vì sao vậy ?
Đơn giản vì họ là những nước lớn. Vì thế, để đánh giá họ cho đúng, cho chuẩn xác thì phải có góc nhìn lớn, góc nhìn toàn cầu; phải đặt mình vào địa vị của họ để nhìn họ cho rõ. Còn nếu ta chỉ nhìn và đánh giá họ từ góc nhìn nhỏ nhoi vốn có của bản thân ta thì chính ta lại tự đánh mất mình và tự hạ thấp chính mình thành những kẻ có tư duy nô lệ.
Trong khi đại dịch COVID-19 đã bao phủ tới trên 75% diện tích đất liền toàn cầu (trừ Châu Nam cực và đại đảo Greenland), các cường quốc từ kinh tế đến dầu mỏ… vẫn tiếp tục “choảng” nhau xem kẻ nào “toang” trước. Chỉ có điều là lần này, trong Thời đại 4.0, người ta không dùng đến vũ khí nóng, đến chiến tranh quân sự mà dùng đến các hình thức chiến tranh phi quân sự, phi truyền thống nhưng vẫn chỉ để giải quyết những mâu thuẫn có tính truyền thống.
1- Từ “Thương chiến” đến “Virus chiến” và đến “Truyền thông chiến”.
Nhiều người cho rằng đại dịch COVID-19 sẽ là một yếu tố làm “giảm nhiệt” của cuộc “thương chiến Mỹ-Trung” kéo dài tới nay đã trên 18 tháng. Nhưng không ! Dường như những nhà lãnh đạo hai quốc gia có quy mô GDP hàng đầu thế giới này vẫn quyết một phen sống mái và không che đậy ý đồ lợi dụng những thiệt hại do đại dịch COVID-19 gây ra để triệt hạ đối thủ. Mặc dù vào thời điểm cuối năm 2019, sát trước thời điểm dịch COVID-19 bùng phát, hai bên đã đạt được một thỏa thuận thương mại giai đoạn 1, qua đó tạm thời đình chỉ cuộc chiến thương mại kéo dài suốt thời gian qua. Nhưng các biện pháp tăng thuế mà hai bên đã áp dụng trong thời gian căng thẳng thương mại vừa qua vẫn được duy trì đối với ít nhất 2/3 tổng lượng hàng hóa được mua/bán giữa Trung Quốc và Mỹ.
Trong khi phải đối phó theo kiểu “giật mình” trước dịch COVID-19 đang lan rộng trên lãnh thổ Mỹ với số người nhiễm lên tới trên 1.200 ca, tổng thống Mỹ Donald Trump vẫn không quên duy trì mức thuế 7,5% (trước đó là 15%) đánh vào các hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc. Lập luận của Donald Trump là “không có lý do gì xem xét lại việc hoãn áp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc trong bối cảnh dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19 đang gây tổn hại đến nền kinh tế.” Đó là một thực tế ! Bởi vì ngay cả trước khi dịch COVID-19 diễn ra thì nhiều công ty sản xuất hàng điện tử trong nước Mỹ cũng đã gặp khó khăn khi nguồn linh kiện điện tử từ Trung Quốc không còn duy trì mức giá rẻ như trước đây.
Trước ý kiến của một số chuyên gia y tế Mỹ cho rằng việc áp thuế cao đối với các hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, trong đó có các sản phẩm y tế đang gây khó khăn cho việc phòng chống dịch CIVID-19 tại Mỹ, cực chẳng đã, ngày 13-3-2020, Donald Trump phải tuyên bố miễn thuế đối với các mặt hàng ống nghe tim phổi, khẩu trang, găng tay latex, quần áo bảo hộ y tế, máy đo huyết áp, máy hô hấp nhân tạo… là những mặt hàng mà “nền kinh tế quý tộc” của Mỹ đã thu hẹp sản xuất từ lâu.
Tuy nhiên, Donald Trump vẫn không hề giảm mức thuế 25% đối với hầu hết hàng hóa trong rổ hàng trị giá 250 tỷ USD nhập khẩu từ Trung Quốc hàng năm.
Ở chiều ngược lại, Trung Quốc cũng cho thấy rõ họ không cần phải vội vã cắt giảm mức thuế 7,5% đối với hàng hóa Mỹ nhập khẩu do thỏa ước tạm đình chiến thương lại giai đoạn 1 mang lại. Trung Quốc tuyên bố nền sản xuất nông nghiệp công nghệ cao mà họ dày công xây dựng từ nhiều năm nay sẽ làm cho Trung Quốc không chỉ có đủ lương thực cho hơn 1,4 tỷ người mà còn đủ để phát triển các ngành khác như chăn nuôi, chế biến nông sản .v.v…
Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế giới ở Anh, Mỹ và Nga cho rằng đại dịch COVID-19 sẽ làm cho thỏa ước giảm nhiệt cuộc “Thương chiến Mỹ-Trung” giai đoạn 1 sớm bị lãng quên. Ngay cả khi đại dịch COVID-19 suy giảm thì mâu thuẫn kinh tế chiến lược Mỹ-Trung vẫn còn nguyên đó vì trên thực tế, chính quyền hai nước đã thực hiện nhiều biến pháp có tính “phân ly kinh tế” trong suốt mấy năm qua. Nhà nghiên cứu kinh tế Jeff Ferry thuộc “Liên minh vì nước Mỹ thịnh vượng” (CPA), một tổ chức ủng hộ Donald Trump cho rằng “Việc Mỹ phụ thuộc vào sản xuất ở Trung Quốc trong nhiều thập kỷ vừa là vấn đề kinh tế, vừa là vấn đề an ninh quốc gia. Một cuộc khủng hoảng (ví dụ như dịch virus corona chủng mới) có thể làm sản xuất Trung Quốc ngừng trệ hoặc chậm lại và từ đó nạn trộm cắp bản quyền sở hữu trí tuệ cũng như sản xuất hàng giả ở Trung Quốc sẽ tăng lên nghiêm trọng hơn”. Do vậy, nhiều cố vấn kinh tế của Donald Trunp cho rằng “một khi Mỹ mở rộng sân chơi kinh tế thì hàng rào cũng phải xây cao hơn”.
Không dừng lại ở các vấn đề kinh tế, “cuộc chiến không tiếng súng” giữa hai nước có quy mô kinh tế lớn nhất nhì thế giới này còn lôi cả chính phủ hai nước sa vào những cuộc đấu khẩu kịch liệt về việc virus SARS-COV-2 từ đâu “chui” ra.
Ngay từ khi dịch COVID-19 bùng phát tại Hồ Bắc, trên hệ thống truyền thông Mỹ và phương Tây đã rộ lên “câu chuyện thần thoại” rằng virus SARS-COV-2 là do các nhà nghiên cứu Trung Quốc lơ đễnh để nó “sổng” ra từ một phòng nghiên cứu vũ khí sinh học ở Vũ Hán. Người Trung Quốc lập tức phản pháo nhưng điều đó chỉ làm cho giới truyền thông Mỹ và phương Tây có thêm cái cớ để chỉ trích chính quyền Trung Quốc. Thậm chí, dựa trên một sự việc có thật là bác sĩ Trung Quốc Lý Văn Lượng trước đó đã đưa lên mạng lời cảnh báo về “một thứ gì đó giống như SARS” và đã qua đời vì nhiễm virus SARS-COV-2, bộ máy truyền thông Mỹ và phương Tây vẫn không giảm cường độ tố cáo Trung Quốc giấu dịch và gọi “nCoV” (tên tạm gọi của SARS-COV-2) là “Wuhan Virus”. Chỉ đến khi Đoàn chuyên gia của Tổ chức y tế thế giới (WHO) đến Vũ Hán để khảo sát và tuyên bố rằng ở đây không có bất kỳ một cơ sở nghiên cứu y học quân sự nào cả mà chỉ có Viện y sinh học dịch tễ Vũ Hán thì những cái loa ở Mỹ và phương Tây mới chịu vặn nhỏ chiết áp lại. Còn WHO thì tuyên bố tên gọi chính thức cho loại virus này là SARS-COV-2 để tránh sự kỳ thị như chúng ta đã biết
Nhưng theo quy luật ám thị tâm lý thì một sự việc không có thật nhưng cứ nói đi nói lại tới hàng trăm lần thì người ta sẽ nghĩ rằng đó là sự việc có thật. Và những thuyết âm mưu về nguồn gốc của SARS-COV-2 ngày càng được chế biến thành nhiều “món ăn thông tin” mới và thêm vào rất nhiều “gia vị” để tăng độ hấp dẫn trên mạng xã hội. Điển hình là thuyết huyễn tưởng cho rằng SARS-COV-2 là virus nhân tạo. Người Trung Quốc lập tức sử dụng thuyết này và cho rằng chính Mỹ đã đem SARS-COV-2 vào Trung Quốc mà cụ thể là đến Vũ Hán.
Cần lưu ý rằng 3 tâm dịch COVID-19 lớn nhất thế giới hiện này gồm Trung Quốc, Iran và Italia nằm trên ba điểm đầu, giữa và cuối của lộ trình “Sáng kiến Vành đai-Con đường” trên biển của Trung Quốc. Đó cũng là vùng tranh chấp địa-chiến lược với “Học thuyết liên kết Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương” của Mỹ. Đây chính là một trong những lý do mà người Trung Quốc nghi ngờ người Mỹ không chỉ đem SARS-COV-2 đến Vũ Hán mà còn đem nó đến các “điểm đầu cầu” quan trong trong đề án thứ hai của “Sáng kiến Vành đai-Con đường” do Trung Quốc đề xướng và đang dốc tâm dốc sức thực hiện trên tuyến đường biển Á-Âu, còn gọi là “Con đường tơ lụa trên biển”.
Xét về logic hình thức thì người Trung Quốc có lý khi cáo buộc Mỹ đã dùng COVID-19 như một “đòn điểm huyệt” và bằng thứ vũ khí chưa có “tiền lệ chiến” để bẻ gãy một trong hai hướng phát triển chiến lược của kinh tế Trung Quốc trên hành lang kinh tế Đông-Tây của Cựu lục địa đang chiếm tới trên 55% tổng lượng trao đồi hàng hóa toàn cầu. Người Trung Quốc cũng hoàn toàn có quyền nghi ngờ người Mỹ bởi chỉ 2 tháng trước khi ca bệnh COVID-19 đầu tiên được phát hiện tại Vũ Hàn thì cũng chính tại đây đã diễn ra một phần của “Cuộc thi quân sự quốc tế” (ARMY GAMES 2019) với 2 nội dung Quân y và Quân nhu đều có quân nhân Mỹ tham gia. Nhiều người nghi ngờ rằng chính lính Mỹ đã mang SARS-COV-2 đến Vũ Hán. Trong đó, Phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã viết thẳng thừng điều này lên trang Sina Weibo của anh ta. Âu đó cũng là cách người Trung Quốc phản ứng với thái độ miệt thị Trung Quốc của Donald Trump.
Trong suốt thời gian trước ngày 13-3-2020, ngày nước Mỹ chính thức bước vào cuộc chiến với COVID-19, Donlad Trump không ngớt bài xích các chứng cứ khoa học về dịch COVID-19. Cụ thể là ông ta đã buộc tội WHO đưa ra con số tỷ lệ tử vong do COVID-19 bị thổi phồng quá mức lên đến 3,4% mà theo ông ta, nó chỉ dưới 1%
Tất nhiên là thái độ “nhìn COVID-19 bằng nửa con mắt” của Donald Trump không duy trì được lâu. Mặc dù 5 ca nhiễm SARS-COV-2 tại Mỹ đã xuất hiện từ đầu tháng 2-2020 nhưng phải đến đầu tháng 3-2020, COVID-19 mới cho Donald Trump một bài học về sự “chủ quan khinh dịch”. Chỉ 4 ngày sau khi tuyên bố mọi việc vẫn bình thường, ngày 13-3-2020, Tổng thống Mỹ đã phải ban hành tình trạng khẩn cấp quốc gia về COVID-19 để “cấm cửa” các hãng hàng không Châu Âu bay tới Mỹ. Và một tuần sau, ông ta tiếp tục ban hành đạo luật về sử dụng công nghiệp quốc phòng trong thời bình nhằm đẩy nhanh tốc độ chế tạo các phương tiện y tế, đồng thời áp dụng biện pháp “phong tỏa cộng đồng” để ngăn dịch COVID-19 lây lan. Và hiện nay, người dân Mỹ đang trả những khoản tiền đắt đỏ để xét nghiệm và cách ly. Ngoài ra, trong dư luận xã hội Mỹ đã xuất hiện những lo ngại về sự minh bạch trong cách truyền đạt thông tin về COVID-19 của các quan chức Mỹ tới người dân Mỹ.
Người dân Trung Quốc cũng tỏ ra hỉ hả khi Donald Trump được COVID-19 dạy cho một bài học. Trên mạng xã hội Sina Weibo, họ gọi Donald Trump là F1, ý nói chính ông ta là người trực tiếp tiếp xúc với nguồn bệnh COVIS-19 (bệnh nhân F1) và làm cho nó lây lan khắp nước Mỹ. Câu chuyện khôi hài này dựa trên một sự việc có thật là Donald Trump đã tiếp đón, đã bắt tay 2 quan chức cao cấp nhà nước Brazil khi họ đến thăm Mỹ và 1 trong 2 người ấy có kết quả xét nghiệm dượng tính với virus SARS-COV-2. Tuy nhiên, chính Donald Trump đã chấp nhận xét nghiệm và may mắn có kết quả âm tính để thoát khỏi những lời nguyền rủa độc địa nhằm vào ông ta.
Một số người Trung Quốc khác thì ví Donald Trump và bộ sậu của ông ta (gồm Phó tổng thống Mike Pence, Bộ trưởng ngoại giao Mike Pompeo và Cố vấn an ninh Nhà Trắng) là nhóm “F4 Hoa Kỳ”. Trên thực tế thì “F4” vốn là tên một nhóm nhạc rock khá nổi tiếng của Đài Loan. Nhưng sau khi dịch COVID-19 bùng phát ở Vũ Hán, cái tên “F4 Hồ Bắc” (để phân biệt với nhóm F4 Đài Loan) được dân mạng Trung Quốc dùng để ám chỉ 4 quan chức Hồ Bắc và Vũ Hán đã bị Ủy ban Chính-Pháp Trung Quốc điều tra, đã bị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cách chức về tội thiếu trách nhiệm trong phòng chống dịch bệnh gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng gồm: cựu bí thứ tỉnh ủy Hồ Bắc Tưởng Siêu Lương, cựu tỉnh trưởng Hồ Bắc Vương Hiểu Đông, cựu bí thư thành ủy Vũ Hán Mã Quốc Cường và cựu thị trưởng Vũ Hán Chu Tiên Vượng.
Ngày 14-3-2020, tờ Tân Dân Vãn Báo của thành phố Thượng Hải, Trung Quốc tỏ ý ngạc nhiên nhưng lại hàm chứa sự châm biếm sâu cay khi viết rằng: “Mỹ là siêu cường duy nhất trên thế giới, trình độ phát triển cao hơn Trung Quốc, thì lẽ ra điều kiện chữa bệnh và phòng ngừa dịch phải cao hơn Trung Quốc chứ nhỉ ?” Còn các thành viên nhóm WeChat thì viết bài nói thẳng nhan đề: “Mỹ nợ Trung Quốc một lời xin lỗi ! Còn thế giới nợ Trung Quốc một tiếng cảm ơn !”. Nhiều tờ báo của Trung Quốc đã đăng lại nguyên văn bài này bao gồm cả dòng title của bản gốc.
Hết chịu nổi, ngày 15-3-2020, thứ trưởng ngoại giao Mỹ đã triệu tập ông Thôi Thiên Khải, đại sứ Mỹ ở Trung Quốc đến để trao công hàm phản đối vì Trung Quốc “đang vu cáo” Mỹ. Tuy ông Thôi Thiên Khái lẳng lặng nhận công hàm và hứa sẽ chuyển ngay về nước nhưng ở bên kia Thái Bình Dương, tại Bắc Kinh, Trưởng phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã tuyên bố rằng người Mỹ hãy thôi những trò bịa đặt vu khống Trung Quốc về dịch COVID-19 và hãy tập trung để lo phòng chống dịch tại Mỹ.
Cuối cùng, Donald Trump cũng lao vào cuộc khẩu chiến và truyền thông chiến khi trong bài phát biểu tại Nhà Trắng trước báo giới ngày 16-3-2020 về việc Mỹ tăng cường các biện pháp phòng chống dịch COVID-19. Ông ta đã lấy cây bút mực đen trứ danh từng ký nhiều văn bản quan trọng ra để tự tay sửa từ “Corona virus” trong bản thảo đánh máy thành “Chiness virus” (Virus Trung Hoa). Không những thế, Donald Trupm còn hạ lệnh cho 5 cơ quan truyền thông của Trung Quốc đang hoạt động tại Mỹ phải giảm số nhân viên xuống dưới 100 người.
Động thái này khiến người Trung Quốc nổi quạu và Bắc Kinh “đáp lễ” bằng cách trục xuất hơn 100 nhà báo, phóng viên của 8 hãng truyền thông lớn của Mỹ đang hoạt động ở Trung Quốc với cáo buộc họ đã đăng tải các thông tin sai lệch về tình hình dịch COVID-19 tại Trung Quốc, gây phương hại cho an ninh quốc gia của Trung Quốc. Các nhà báo của Mỹ còn làm việc tại Trung Quốc cũng bị hạn chế hoạt động. Chính quyền Trung Quốc cấm cửa các nhà báo Mỹ đến Vũ Hán với lý do để tránh cho các phóng viên Mỹ bị nhiễm dịch COVID-19, qua đó có thể tạo cớ cho chính quyền Mỹ tiếp tục đổ lỗi cho Trung Quốc.
2- Bộ ba dầu lửa OPEC, Nga, Mỹ và cuộc chiến giá dầu.
“Qua ba điểm, chỉ có thể dựng được một mặt phẳng và chỉ một mà thôi”. Đó là tiên đề hình học của nhà toán học Hy Lạp huyền thoại Euclid mà bất kỳ một học sinh trung học cơ sở nào cũng thuộc lòng. Còn trong cuộc sống xã hội cũng vậy. Các nhóm xã hội tồn tại một cách vững chãi luôn dựa trên cơ sở một bộ ba. Đó là vì người Việt Nam đã đúc kết: “Vững như kiềng ba chân”.
Không phải ngẫu nhiên mà “tam-tam chế” trở thành mô hình cơ bản để tổ chức quân đội nhiều nước trên thế giới áp dụng trong thế kỷ XX và thậm chí là cả trước đó. Đơn giản nhất là 3 người họp thành một tổ chiến đấu, 3 tổ chiến đấu hop thành một tiểu đội (A), 3 tiểu đội họp thàng 1 trung đội (B), 3 trung đội họp thành một đại đội (C), 3 đại đội họp thành 1 tiểu đoàn (D), 3 tiểu đoàn họp thành 1 trung đoàn (E), 3 trung đoàn họp thành một Sư đoàn (F), 3 sư đoàn họp thành 1 quân đoàn (Corp), 3 quân đoàn họp thành một tập đoàn quân (Group), 3 tập đoàn quân họp thành một phương diện quân (Army).
Suy rộng ra, sự cân bằng chiến lược trên thế giới một cách tương đối bền vững luôn được xây dựng trên những “bộ ba chiến lược”. Sau khi thế giới mô hình thế giới đơn cực do Mỹ tự nhận vai trò cầm đầu chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn và đã bị phá vỡ, thế giới dần hình thành những “tam giác chiến lược” nhưng không phải là tam giác đều và không đồng nhất trên các lĩnh vực cơ bản.
Về chính trị, thế giới có 5 thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc. Nhưng trên thực chất, vì cả Mỹ, Anh, Pháp đều là thành viên khối NATO đồng thời là đồng minh chiến lược của Mỹ nên trên thực tế, chỉ có 3 “chân kiềng” gồm: khối Mỹ-Anh-Pháp, Nga, Trung Quốc. Tương ứng với mô hình này, về quân sự, thế giới có bộ ba Mỹ, Nga, Trung đều là các nước sở hữu lực lượng vũ khí hạt nhân chiến lược lớn nhất và lực lượng sử dụng vũ khí thông thường cũng lớn nhất.
Nhưng về kinh tế thì khác, căn cứ vào quy mô của nền kinh tế các quốc gia được đánh giá bằng GDP, thế giới có bộ ba Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản (EU không được xem là một quốc gia mà chỉ là một liên minh kinh tế). Tương tự như vậy, thế giới cũng có những bộ ba “ông lớn” khác có ảnh hưởng ở mức độ toàn cầu trên các lĩnh vực tài chính, năng lượng, dầu mỏ, than đá, lương thực, nước sạch.. là những nguyên-nhiên liệu thiết yếu để duy trì và phát triển kinh tế xã hội.
Riêng về dầu lửa là mặt hàng năng lượng phổ biến nhất thế giới hiện nay (chiếm 33% tổng sản lượng tiêu thụ năng lượng toàn cầu quy ra đơn vị TOE), chúng ta có “bộ ba chiến lược” Mỹ, Nga, OPEC:
- Mỹ có sản lượng 15.043.000 thùng/ngày (bao gồm cả dầu lỏng và dầu đá phiến).
- Liên bang Nga có sản lượng 13.500.000 thùng/ngày.
- Arabia Saudi có sản lượng 11.900.000 thùng/ngày.
- Liên bang Nga có sản lượng 13.500.000 thùng/ngày.
- Arabia Saudi có sản lượng 11.900.000 thùng/ngày.
Arabia Saudi là “anh cả” của “Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ” (OPEC) và tổng sản lượng của toàn khối này ngay cả khi trừ đi sản lượng của hai “gã khổng lồ” của khối là Iran và Venezuela đang bị Mỹ cấm vận vẫn lên tới 30.793.000 thùng/ngày, gấp đôi tổng sản lượng của Mỹ, gấp 2,5 tổng sản lượng của Nga.
Năm 2014, lần đầu tiên, Mỹ tung ra thị trường xuất khẩu dòng dầu chế tạo từ đá phiến dầu (kerogen) và cát dầu (bitumen) có giá thành 57USD/thùng. Qua đó kéo giảm giá dầu thế giới xuống mức 70USD/thùng, đồng thời, ban hành lệnh cấm vận đối với Nga nhằm phá hoại nền kinh tế nước này đã có tới trên 50% ngân sách dựa vào xuất khẩu dầu mỏ khi đó. Để giữ thị trường, OPEC chấp nhận giảm giá dầu đồng thời tung ra đòn tăng sản lượng dầu để giữ các thị trường tiêu thụ truyền thống của khối. Trong khi đó Nga vẫn không hề giảm sản lượng mà còn tiếp tục bán dầu “qua nước thứ ba” cũng để giữ thị trường tiêu thụ cho mình, đồng thời, thi hành chính sách “hướng Đông”, mở ra một số thị rường dầu mỏ mới.ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ. Giá dầu trên thế giới tiếp tục giảm sâu trong các năm 2015-2016 tới mức 35USD/thùng, đẩy các công ty dầu đá phiến Mỹ đứng trước bờ vực phá sản khi giá bán đã xuống dưới mức giá thành.
Sau 3 năm dùng các thủ đoạn chính trị để tạo cớ cấm vận đối với Iran và Venezuela, đồng thời chia rẽ, làm yếu khối OPEC và phá hoại chương trình OPEC+ (OPEC cùng Nga và một số quóc gia xuất khẩu dầu mỏ ngoài OPEC) nhằm tranh đoạt thị trường dầu mỏ của khối này, từ năm 2017, sức cầu của thị trường dầu mỏ thế giới tăng trở lại, nước Mỹ vững tin thúc đẩy tăng trưởng sản lượng dầu đá phiền, trở thành quốc gia đóng hai vai, vừa nhập khẩu dầu mỏ (từ các nước OPEC với giá rẻ) và “bán lại” dầu mỏ cho các quốc gia khác không ký được hợp đồng với OPEC và Nga hoặc đã ký hợp đồng với Iran và Venezuela nhưng bị lệnh cấm vận của Mỹ ngăn chặn việc thực thi hợp đồng. Giá dầu trên thế giới bình ổn ở mức từ 60 USD đến 70USD/thùng và duy trì được 18 tháng.
Nhưng có một điều mà có lẽ người Mỹ đã không thể tính tới. Đó là COVID-19 ! Sự trở lại của “bóng ma SARS” sau 17 năm ban đầu không làm cho người Mỹ lo lắng. Thậm chí, một số chính khách Mỹ còn “rung đùi” ngồi chờ Trung Quốc toang hoang vì dịch COVID-19 sau khi đã “ngấm đòn” chiến tranh thương mại Mỹ-Trung. Ngay cả khi dịch COVID-19 lần đầu tiên xâm nhập vào nước Mỹ ở ngày thứ 41, Donald Trump vẫn không thèm để ý đến. Thậm chí đến ngày 9-3-2020, khi dịch COVID-19 ở Mỹ có dấu hiệu trầm trọng hơn với cả chục ca tử vong trong ngày, Donald Trump vẫn còn nói cứng. Ông ta sợ rằng việc tuyên bố chống dịch của chính phủ sẽ gây thiệt hại lớn cho các nhà tư bản nên cần cho họ thêm thời gian để “rút lui”, để “chuyển hóa” tiền vốn về chỗ trú ẩn an toàn. Và chỉ sau khi có trên 50 người Mỹ “ngã xuống” vì COVID-19, Donald Trump mới chịu ban hành “tình trạng khẩn cấp quốc gia”. Tuy nhiên, mọi việc đã bị xử lý quá muộn. Mỹ đã trở thành tâm dịch COVID-19 lớn nhất Tây bán cầu
Người Việt Nam đã có câu ngạn ngữ phê phán những kẻ ích kỷ sớm muộn cũng phải trả giá. Nếu anh cứ hành xử theo kiểu “Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại” thì chắc chắn sớm muộn anh sẽ bị “Cháy thành vạ lây”. Và trường hợp của Mỹ cũng không phải là ngoại lệ, bởi virus SARS-COV-2 có thể bám vào con người mà đi khắp thế giới, có thể xâm nhập mọi nơi, kể cả Nhà Trắng và Lầu Năm Góc, những nơi được coi là có hàng rào bảo vệ và phòng thủ nghiêm ngặt nhất xứ cờ hoa.
Hoảng loạn trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng do dịch COVID-19 gây ra, các nhà đầu tư Mỹ đồng loạt bán đổ bán tháo cổ phiếu trên thị trường chứng khoán New York, kéo theo sắc đỏ tràn ngập trên các thị trường chứng khóa London, Frankfurk, Paris, Tokyo, Seul, Hongkong .v.v… Trong số thiệt hại tới trên 7.000 tỷ USD (sơ tính) do các cổ phiếu giảm giá nghiêm trọng có tới quá nửa thuộc các ngành dầu mỏ. Lần đầu tiên trên thế giới trong thế kỷ XXI, giá cổ phiếu, giá vàng và cả giá dầu đều lao dốc, Có những chỉ số chứng khoán chủ chốt của Mỹ như DJI (chỉ số công nghiệp Dow John) gần như rơi theo phương thẳng đứng trong 3 ngày 13, 14 và 15-3-2020, các chỉ số cơ bản khác như Nazdaq, S&P 500 cũng trong tình trạng bi đát tương tự.
Thế nhưng bất chấp việc giá dầu trên thế giới giảm sâu chưa từng thấy, Nga tiếp tục tăng sản lượng khai thác dầu. Đây là đòn “nhu đạo” của Nga, một miếng đánh kiểu “mượn sức đối phương” trong môn võ Judo, có thể “quật gãy xương sống” ngành khai thác dầu đá phiến của Mỹ. Các công ty dầu đá phiến Mỹ đang gánh khoản nợ khổng lồ trên 800 tỷ USD và 57% trong số đó sẽ đáo hạn vào năm 2021.
Điên tiết vì “đòn tăng sản lượng dầu” của Nga, tổng thống Mỹ Donald Trump đe dọa sẽ tiếp tục trừng phạt nước Nga vì đã làm phá giá dầu mỏ. Tuy nhiên, người ta không hiểu nước Mỹ còn thứ vũ khí phi quân sự nào để trừng phạt Nga nữa hay không. Bởi mọi ngón võ “trừng phạt”, “cấm vận” đều đã được Mỹ tung ra thi thố nhưng đều vô hiệu trước sự kiên cường của dân tộc Nga.
Cuộc chiến giá dầu vẫn còn tiếp diễn cho thấy một tương lai cực kỳ bấp bênh của loài người khi những cường quốc dầu mỏ đang “trở chứng”. Một khi các nước OPEC và Nga tăng sản lượng dầu mỏ thì các công ty sản xuất dầu đá phiến của Mỹ cũng bộc phải tăng theo nếu không muốn mất nhiều thị phần trong tương lai. Nhưng tình cảnh của ba đối thủ này lại hết sức khác nhau. Trong khi ngân sách của Liên Bang Nga hiện chỉ có trên dưới 35% giá trị dựa vào xuất khẩu dầu mỏ thì ngân sách của Arabia Saudi lại phụ thuộc vào giá trị xuất khẩu dầu mỏ tới 85%. Điều đó có nghĩa là Nga chỉ cần bán dầu với giá 32USD/thùng là có thể cân bằng ngân sách thì Arabia Saudi cần bán với giá 68USD/thùng mới bảo đảm cân bằng ngân sách. Do đó, có thể thấy rằng xét về tổng thể Arabia Saudi ở vào thế bất lợi hơn Nga, Còn Mỹ thì đóng 2 vai, vừa là nhà xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất thế giới ngoài OPEC nhưng cũng vừa là quốc gia tiêu thụ dầu mở lớn nhất thế giới với mức 20 triệu thùng/ngày. Điều đó có nghĩa là Mỹ phải nhập trên dưới 5 triệu thùng dầu/ngày. Bên cạnh đó, kể từ năm 1971, khi Mỹ từ bỏ chính sách bản vị vàng cho đồng Dollar để chuyển sang chính sách bản vị dầu mỏ cho Dollar, nghĩa là ràng buộc giá trị của đông Dollar Mỹ vào dầu mỏ thì giá dầu mở đã trở thành “tử huyệt” của đồng Dollar Mỹ nói riêng và nền tài chính Mỹ nói chung. Chính vì vậy, Mỹ rất muốn trang giành vị trí số 1 về xuất khẩu dầu lửa với OPEC để không bị phụ thuộc quá nhiều vào nguồn dầu nhập khẩu từ Trung Đông.
Cuộc chiến giá dầu còn lâu mới đến hồi kết, kể cả khi đại dịch COVID-19 đang lan tràn tại trên 170 quốc gia và vùng lãnh thổ cũng như đang “tàn phá” nền kinh tế thế giới. Trước hết, theo một quy luật hết sức tự nhiên là khi “cờ đã tàn cuộc” thì “kẻ nào có trong tay nhiều dự trữ hơn sẽ là kẻ thắng cuộc”. Và cuối cùng, việc người Nga tăng sản lượng dầu mỏ không chỉ để giữ thị phần dầu mỏ của Nga trên thế giới mà còn nhằm mục tiêu xa hơn.
IMF dự báo rằng cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội toàn cầu do dịch COVID-19 gây ra tuy có ảnh hưởng rất nghiêm trọng nhưng không kéo dài bới nó không xuất phát từ việc các quốc gia đã vi phạm các quy luật cung cầu, thả nổi thị trường như những năm 1929-1932, cũng không vi phạm nguyên tắc cân đối tiền-hàng như cuộc khủng hoảng bong bóng bất động sản ở Mỹ năm 2008. Dịch COVID-19 chắc chắn sẽ thoái lui. Trung Quốc là nước bị “tàn phá” nghiêm trọng nhất nhưng cũng sẽ phục hồi sớm nhất. Tiếp theo là Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước khác ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương cũng sẽ phục hồi sản xuất. Đây là nơi mà Nga có nhiều thị phần dầu khí nhất sau Châu Âu. Vì vậy, việc Nga tăng sản lượng dầu nhằm giữ vững và mở rộng thị phần của mình là một chủ trương chiến lược để có lợi ích lâu dài mặc dù phải chịu một số thiệt hại trước mắt.
Đối với Arabia Saudi, họ cũng đã từng “chịu trận” vào năm 2014 khi Mỹ tung ra thị trường một khối lượng lớn dầu đá phiến nhằm “bóp chết” Nga khiến họ bị “cháy thành vạ lây”. Họ thừa hiểu rằng người Mỹ chỉ lợi dụng họ để chống Nga chứ không hề quan tâm đến lợi ích của họ mà chỉ vì lợi ích của chính Mỹ. Vì vậy mà dưới con mắt của Mỹ, Arabia Saudi càng ngày trở thành một “đồng minh khó bảo”. Đây chính là cơ hội cho Nga có thể bắt tay với “anh cả” của khối OPEC để đưa thị trường dầu mỏ thế giới ra khỏi sự thao túng của các tập đoàn tư bản tài phiệt Mỹ tại thị trường dầu mỏ New York. Tuy trước mắt, Nga và Arabia Saudi “đồng sàng dị mộng” về vấn đề giá dầu nhưng lại cùng có đối thủ cạnh tranh chung là “dầu đá phiến Mỹ”. Do dó, việc Nga và Arabis Saudi “cãi nhau”, “mặt nặng mày nhẹ” với nhau nhưng lại “rủ nhau” cùng tăng sản lượng khai thác và xuất khẩu dầu, qun đó kéo giá dầu giảm sâu có thể sẽ là một đòn knok-out giáng vào các công ty sản xuất dầu đá phiến Mỹ đang trong tình trạng nợ chồng nợ chất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét