Tìm kiếm

Thứ Tư, 31 tháng 5, 2023

PHÁT HUY VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN


Thực hiện Quy chế giám sát và phản biện xã hội, thời gian qua, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội tỉnh Quảng Ninh tăng cường công tác giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu.


Với cách làm sáng tạo, phù hợp thực tiễn, công tác này giúp xây dựng đội ngũ cán bộ gương mẫu, đi đầu, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Đảng và hệ thống chính trị tại địa phương.


Từ năm 2020 đến nay, Mặt trận Tổ quốc các cấp tỉnh Quảng Ninh tập trung thực hiện nhiệm vụ giám sát cán bộ đảng viên, công chức, viên chức, các đại biểu dân cử. Nội dung giám sát tập trung việc lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, của tỉnh; việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức lối sống; vai trò, trách nhiệm nêu gương, quy tắc ứng xử của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo; trách nhiệm tham gia sinh hoạt chi bộ nơi công tác và nơi cư trú…


Chủ động nhận diện, phát hiện


Năm 2020, thành phố Cẩm Phả là địa phương đầu tiên trong tỉnh triển khai chương trình giám sát cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đại biểu dân cử ở nơi công tác và nơi cư trú đối với các đồng chí là Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp phường, xã, lãnh đạo các phòng chuyên môn. Để bảo đảm tính khách quan, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố lấy ý kiến đánh giá của nhân dân tại các khu dân cư thông qua Ban công tác Mặt trận bằng phiếu, niêm phong gửi về Mặt trận Tổ quốc thành phố phân loại, tổng hợp.


Đây chính là cơ sở để Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố làm việc với cá nhân, tổ chức được nhân dân nhận xét, đánh giá. Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc thành phố Cẩm Phả Ðoàn Thị Liên chia sẻ: “Sau khi triển khai, chúng tôi đã nhận nhiều góp ý chân thành, thẳng thắn của nhân dân với cán bộ, đảng viên. Một đảng viên là lãnh đạo bệnh viện đa khoa tỉnh được nhân dân nhận xét ít tham gia sinh hoạt tại khu dân cư.


Tại phường Cẩm Sơn, một đảng viên là công chức, kế toán cũng được nhân dân góp ý cần tích cực hơn với công việc của khu dân cư. Những nội dung góp ý của nhân dân thông qua chương trình giám sát là cơ sở để cấp ủy đảng, cơ quan đánh giá, phân loại cán bộ, đảng viên”.


Theo đồng chí Nguyễn Thị Ngân, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Quảng Ninh, triển khai công tác giám sát cán bộ đảng viên, công chức, viên chức, đại biểu dân cử là việc mới và khó. Khi thực hiện nhiệm vụ này, các cán bộ mặt trận chuyển yêu cầu giám sát từ “tròn vai-thuộc bài” sang “nhận diện-phát hiện”.


Việc giám sát được thực hiện thận trọng, bài bản, công phu, lồng ghép các hình thức giám sát, có hiệu quả và không làm ảnh hưởng đến các hoạt động bình thường cũng như uy tín của đối tượng được giám sát và cơ quan công tác; đồng thời bảo đảm các kiến nghị sau giám sát được đối tượng giám sát nghiêm túc tiếp thu. Do chưa có hướng dẫn cụ thể từ cấp trên cho nên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh chủ động nghiên cứu, tìm cách làm phù hợp nhất.


Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh xây dựng kế hoạch giám sát, trong đó xác định rõ mục đích, yêu cầu. Việc giám sát là để phát huy các ưu điểm và kịp thời phát hiện những hạn chế, thiếu sót, khuyết điểm; những khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân; xác định rõ trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, của tỉnh. Một yêu cầu quan trọng trong giám sát là đánh giá sự tu dưỡng rèn luyện đạo đức, lối sống ở nơi làm việc và nơi cư trú của cán bộ, đảng viên.


Nội dung giám sát tập trung vào kết quả tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; vai trò, trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo. Việc thực hiện đạo đức, văn hóa công vụ, trách nhiệm thực thi công vụ, thực hiện nhiệm vụ của đảng viên về sinh hoạt chi bộ nơi công tác và nơi cư trú; việc thực hiện quy định về công tác cán bộ và kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ; chấp hành pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; phòng chống tham nhũng, tiêu cực… cũng là những nội dung giám sát.


Người được giám sát có báo cáo tự đánh giá kết quả thực hiện công tác lãnh đạo, chỉ đạo và ban hành các văn bản chỉ đạo, điều hành theo thẩm quyền (có kèm theo văn bản); kết quả rèn luyện, tu dưỡng đạo đức lối sống; vai trò trách nhiệm nêu gương. Công tác thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí; phòng chống tham nhũng tiêu cực; việc chấp hành pháp luật tiếp công dân, thực hiện đạo đức, văn hóa công vụ; tham gia sinh hoạt chi bộ nơi công tác, nơi cư trú đều được nêu cụ thể, chi tiết.


Việc lựa chọn đối tượng giám sát được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Quảng Ninh nghiên cứu triển khai bài bản. Năm 2021 là năm đầu tiên thực hiện, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh tiến hành giám sát trực tiếp 10 đồng chí Chủ tịch, 26 đồng chí Phó Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố. Năm 2022, đối tượng giám sát là 16 đồng chí là giám đốc, trưởng ban, cục trưởng; 45 đồng chí là phó giám đốc, phó trưởng ban, phó cục trưởng. Năm 2023, Mặt trận Tổ quốc tỉnh triển khai kế hoạch giám sát trực tiếp 18 đại biểu HĐND tỉnh nhiệm kỳ 2021-2026.


Đồng chí Lê Thị Kim Cúc, Phó Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy Quảng Ninh khẳng định: Việc triển khai các chương trình giám sát cán bộ, đảng viên của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội trong tỉnh góp phần tạo nhiều chuyển biến tích cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là lề lối, tác phong, đạo đức công vụ cũng như tinh thần sáng tạo, tính tiền phong, gương mẫu.


Đây là động lực, nền tảng để Đảng bộ tỉnh vượt qua khó khăn, thách thức trở thành là địa phương 6 năm liên tiếp (2017-2022) giữ vị trí “quán quân” về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI. Năm 2023, Quảng Ninh cũng là địa phương dẫn đầu về tốc độ phát triển và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, nhất là hạ tầng giao thông chiến lược, hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông…


Hoàn thiện cơ chế và nâng cao chất lượng cán bộ


Khảo sát thực tế công tác giám sát cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử tại các địa phương ở Quảng Ninh ghi nhận, để công tác này đạt hiệu quả, trước hết cần chú trọng đổi mới nội dung và hình thức giám sát phù hợp thực tiễn. Việc xác định nội dung giám sát căn cứ trên kết quả, những hạn chế trong triển khai chương trình, kế hoạch đề ra của các địa phương, đơn vị để nhấn mạnh các nhóm nhiệm vụ trọng tâm.


Những nội dung này cần được cụ thể tại đề cương báo cáo giám sát cán bộ, đảng viên. Cùng với giám sát thông qua báo cáo của đối tượng được giám sát, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh kết hợp giám sát trực tiếp để thẩm định, xác minh. Phương thức này giúp kết quả giám sát khách quan, đầy đủ, chính xác.


Quy trình năm bước trong giám sát cán bộ, đảng viên ở Quảng Ninh cũng là kinh nghiệm hay. Đó là, Mặt trận giao cho từng thành viên nghiên cứu các nội dung giám sát trong báo cáo của đối tượng giám sát, từ đó lựa chọn những vấn đề cần làm rõ, cần thẩm định, xác minh.


Các tổ giám sát đi xác minh, thẩm định tại đơn vị, đối với từng nội dung cần làm rõ, có lập biên bản cuộc làm việc. Các tổ tiếp tục xác minh, thẩm định, lấy ý kiến tại chi bộ nơi cư trú. Từ kết quả giám sát, đoàn giám sát làm việc với đối tượng giám sát và tập thể lãnh đạo cơ quan có đối tượng giám sát để thống nhất ra kết luận giám sát.


Cuối cùng là tổng hợp báo cáo kết quả giám sát và kiến nghị. Kèm theo các báo cáo còn có biểu bảng liên quan như tổng hợp số liệu tiếp công dân; kết quả giải quyết đơn thư khiếu nại thuộc trách nhiệm, thẩm quyền… Năm bước này kết hợp với việc lựa chọn thành viên tham gia đoàn giám sát là các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực giám sát đã góp phần nâng cao chất lượng kết quả giám sát.


Tuy nhiên, thực tiễn từ công tác giám sát cán bộ, đảng viên tại Quảng Ninh cho thấy cần hoàn thiện quy định, quy chế làm việc, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ thực hiện giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội. Theo Phó Bí thư Tỉnh đoàn Nguyễn Phương Thảo, việc giám sát cán bộ, đảng viên của Đoàn Thanh niên có khó khăn do đặc điểm tuổi còn trẻ và thường xuyên luân chuyển công tác cho nên thiếu cán bộ có kinh nghiệm, kiến thức chuyên sâu về hoạt động giám sát.


Trong khi đó, tại nhiều cơ sở, tư duy họ hàng, người thân còn khá nặng nề nên khó khăn trong thực hiện giám sát đối tượng là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Cẩm Phả đánh giá hoạt động giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ vẫn có những hạn chế.


Nguyên nhân cũng do trình độ hiểu biết về chính sách, luật pháp, nghiệp vụ về công tác giám sát, phản biện xã hội của cán bộ khối Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội ở cơ sở chưa sâu. Công tác phối hợp, theo dõi, đôn đốc xử lý các kiến nghị sau giám sát còn chưa thật sự được quan tâm và gặp nhiều khó khăn. Cơ chế phối hợp cung cấp thông tin giữa Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan chức năng còn bất cập…


Việc bồi dưỡng, nâng cao kiến thức giám sát của cán bộ trong khối là cần thiết; đồng thời cần có các quy định, quy chế, bảo đảm các cơ quan cùng vào cuộc một cách thực chất, hiệu quả. Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Nguyễn Thị Ngân đề xuất việc nghiên cứu đổi mới mô hình, tổ chức Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp ở địa phương. Vì hiện nay, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc ở các địa phương ngày càng được mở rộng nhưng biên chế chưa điều chỉnh, bổ sung tương xứng.


Không chỉ Quảng Ninh, đây cũng là những khó khăn, vướng mắc chung của nhiều địa phương trong công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc, nhất là giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên. Mới đây, Ban Bí thư có Kết luận số 54-KL/TW, ngày 9/5/2023 về tiếp tục thực hiện Quyết định số 99-QĐ/TW của Ban Bí thư về tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.


Kết luận của Ban Bí thư nhận định: Vẫn còn tình trạng e ngại hoặc lợi dụng dân chủ trong phản ánh, góp ý trực tiếp với cấp ủy, tổ chức đảng về những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu; một số phản ánh, kiến nghị của nhân dân chưa được xem xét kịp thời thấu đáo.


Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác xây dựng Đảng.


Ban Bí thư yêu cầu cần phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội trong công tác vận động nhân dân tích cực tham gia đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội đối với người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ, đảng viên trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống, trách nhiệm thực thi công vụ./.


Biên Cương

CỬ TRI ĐÁNH GIÁ CAO SỰ CỐ GẮNG TRONG CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI


                                     Ảnh: TTXVN

Theo dõi phiên thảo luận của Quốc hội về đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2022; tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2023, sáng 31/5, đông đảo cử tri và nhân dân Thủ đô ghi nhận, đánh giá cao sự cố gắng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế, giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong phục hồi, phát triển kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát, giải quyết một số dự án tồn đọng, kéo dài do ảnh hưởng sau COVID-19.


Ông Nguyễn Thuận Quảng (Cầu Giấy, Hà Nội), cán bộ lão thành cách mạng, bày tỏ vui mừng, phấn khởi khi trong bối cảnh rất khó khăn, nhưng trong năm 2022, Việt Nam vẫn thực hiện được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; đạt và vượt 13/15 chỉ tiêu kế hoạch. Trong đó, nhiều chỉ tiêu tốt hơn số đã báo cáo Quốc hội, như: GDP năm 2022 tăng 8,02% (đã báo cáo là 8%); GDP bình quân đầu người đạt 4.109 USD (đã báo cáo là 4.075 USD).


Bên cạnh kết quả đạt được, ông Nguyễn Thuận Quảng cũng băn khoăn về những tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế, xã hội, đời sống nhân dân do xung đột Nga-Ukraina kéo dài, lạm phát thế giới tăng cao, trong nước giá xăng dầu, nguyên vật liệu biến động tăng. Các vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán, bất động sản, tài chính, trái phiếu doanh nghiệp, bảo hiểm, đất đai, tình trạng thiếu việc làm... ảnh hưởng tiêu cực đến tâm trạng chung của cử tri và nhân dân.


Do đó, ông Nguyễn Thuận Quảng mong muốn Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo nghiên cứu, có các chính sách, giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn giúp doanh nghiệp phục hồi sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng, đảm bảo việc làm, thu nhập giúp người lao động ổn định cuộc sống; tăng cường công tác quản lý nhà nước, có chế tài bảo vệ người dân khi tham gia ký kết các hợp đồng mua bán nhà, đất, hợp đồng bảo hiểm... là những hợp đồng in sẵn, do khách hàng tin tưởng, không đọc kỹ, hoặc không hiểu rõ các điều khoản nên gặp bất lợi, thiệt hại cho người mua.


Luôn theo dõi sát các kỳ họp Quốc hội và dành sự quan tâm đến giáo dục, ông Nguyễn Phấn Tiến (cử tri xã Dương Hà, huyện Gia Lâm, Hà Nội) cho rằng, để phát triển kinh tế - xã hội thì chất lượng nguồn nhân lực là cái gốc của mọi vấn đề. 


Hà Nội là một trong những địa phương có quy mô, chất lượng giáo dục cao nhất cả nước, tạo nguồn nhân tài cho xã hội. Đi kèm với những thành tích, góp phần đáng kể vào việc ghi danh Việt Nam trên bản đồ giáo dục thế giới, giáo dục Hà Nội vẫn còn rất nhiều thách thức, khó khăn trước bối cảnh hội nhập, nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng gia tăng.


"Bên cạnh các giải pháp chủ động, việc tăng cường nguồn lực từ ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo là rất cần thiết. Việc xã hội hóa giáo dục cần phải được đẩy mạnh, đồng thời cần có chính sách hỗ trợ các trường ngoài công lập để bảo đảm phát triển giáo dục bền vững và công bằng xã hội. Tôi mong Chính phủ sẽ có những giải pháp quyết liệt và dành sự ưu tiên hơn nữa cho giáo dục cả nước nói chung, giáo dục Hà Nội nói riêng, từng bước gây dựng nền tảng nhân lực bền vững, chất lượng, đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Với sự điều hành tại các kỳ họp trước và ngay trong sáng nay, tôi tin rằng, Chính phủ, Quốc hội sẽ đưa ra được những quyết sách kịp thời, tháo gỡ khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội hiện nay", ông Nguyễn Phấn Tiến chia sẻ./.


Thanh Thảo

Thứ Hai, 29 tháng 5, 2023

TỪ 1/6 ĐỒNG LOẠT THÍ ĐIỂM ÁP DỤNG TÀI KHOẢN ĐỊNH DANH ĐIỆN TỬ MỨC ĐỘ 2 TẠI CÁC SÂN BAY



Cục Hàng không Việt Nam vừa báo cáo Bộ Giao thông vận tải về việc sử dụng tài khoản định danh điện tử mức độ 2 đối với hành khách đi tàu bay. Theo đó, từ ngày 1/6 đến 1/8, sẽ thực hiện thí điểm đồng loạt tại các sân bay đối với các chuyến bay nội địa.


Mới đây, Cục trưởng Hàng không Việt Nam Đinh Việt Thắng đã chủ trì họp với đại diện các đơn vị trong ngành để nghiên cứu, triển khai Nghị định số 59/2022/NĐ-CP của Chính phủ quy định về định danh và xác thực điện tử; Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử”, áp dụng tài khoản định danh điện tử mức độ 2 đối với hành khách đi tàu bay.


Qua nghiên cứu nội dung Nghị định số 59/2022/NĐ-CP, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền; ý kiến thảo luận, trao đổi của các đơn vị, cuộc họp đã thống nhất báo cáo Bộ Giao thông vận tải đề xuất phương án triển khai áp dụng việc sử dụng tài khoản định danh điện tử mức độ 2 đối với hành khách đi tàu bay phù hợp, đáp ứng quyền lợi của hành khách, đồng thời tuân thủ đúng quy định của pháp luật và nâng cao chất lượng dịch vụ hàng không.


"Trước mắt, sẽ thí điểm chấp nhận sử dụng tài khoản định danh điện tử mức độ 2 đối với hành khách làm thủ tục đi tàu bay, đánh giá hiệu quả sau khi thí điểm và báo cáo Bộ Giao thông vận tải về những vướng mắc trong triển khai các quy định tại Nghị định số 59/2022/NĐ-CP sau khi thí điểm.


Việc thí điểm sẽ thực hiện đồng loạt tại các cảng hàng không từ ngày 1/6/2023 đến hết ngày 01/8/2023 đối với chuyến bay nội địa; chấp nhận tài khoản định danh điện tử mức độ 2 đối với hành khách làm thủ tục đi tàu bay thay thế căn cước công dân; chỉ thí điểm với hành khách tự nguyện", đại diện lãnh đạo Cục Hàng không Việt Nam cho biết.


Về phương án lâu dài, triển khai ứng dụng xác thực tài khoản định danh điện tử cá nhân mức độ 2 đối với hành khách khi làm thủ tục đi tàu bay kết hợp xác thực sinh trắc học hành khách toàn trình (nhiệm vụ này đã được Bộ Giao thông vận tải yêu cầu triển khai xác thực sinh trắc học khi công dân làm thủ tục đi tàu bay, hoàn thành trong năm 2023, hiện Cục Hàng không Việt Nam đã tích cực triển khai đến các cơ quan, đơn vị liên quan trong ngành).


Khi hành khách sử dụng tài khoản định danh điện tử mức độ 2 đi tàu bay, nhân viên check-in, nhân viên kiểm tra an ninh hàng không, nhân viên boarding kiểm tra trực quan tài khoản định danh điện tử mức độ 2 của hành khách.


Đối với một số trường hợp đặc biệt như hành khách có dấu hiệu bất thường, hành khách đi cùng chuyến bay chuyên khoang, … sẽ kết hợp vận dụng phương pháp kiểm tra tính thật/giả của tài khoản định danh điện tử mức độ 2 của công dân như hướng dẫn của Bộ Công an bằng cách dùng tài khoản định danh cá nhân mức độ 2 cài trên điện thoại của nhân viên hàng không, quét mã QR code trên tài khoản định danh điện tử của hành khách để xác định mức độ tin cậy của tài khoản định danh điện tử mức độ 2 của hành khách,…/.


Thanh Loan

TRÁNH LÃNG PHÍ CÁC NGUỒN LỰC QUÝ GIÁ ĐÃ HUY ĐỘNG ĐƯỢC TRONG PHÒNG, CHỐNG COVID-19 



Nêu rõ việc thanh quyết toán kinh phí phòng, chống dịch Covid-19 từ ngân sách nhà nước trong và sau giai đoạn cao điểm còn chậm trễ, phát sinh nhiều khó khăn, vướng mắc, các đại biểu Quốc hội nhấn mạnh việc cần thiết phải có những giải pháp để tháo gỡ dứt điểm các vướng mắc này, tránh lãng phí các nguồn lực quý giá đã huy động được.


Chiều 29/5, theo chương trình Kỳ họp thứ 5, Quốc hội tiếp tục họp phiên toàn thể tại hội trường, thảo luận về việc huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19; việc thực hiện chính sách, pháp luật về y tế cơ sở, y tế dự phòng.


Cuộc huy động tổng lực lớn và thành công


Bày tỏ tán thành với nhiều nội dung trong báo cáo của Đoàn giám sát Quốc hội về huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống dịch, đại biểu Trần Văn Khải - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Nam nêu rõ, có thể nói về huy động nguồn lực chúng ta đã rất thành công.


Tuy nhiên, đại biểu cũng cho biết, tại trang 3, khoản b, mục 1 về quản lý, sử dụng nguồn lực huy động được có nêu: "Việc thanh quyết toán kinh phí phòng, chống dịch từ ngân sách nhà nước trong và sau giai đoạn cao điểm phòng, chống dịch còn chậm trễ, phát sinh nhiều khó khăn, vướng mắc chưa được giải quyết kịp thời, dứt điểm".


Theo đại biểu, như vậy nội dung chỉ có đánh giá về nguồn ngân sách nhà nước, chưa có đánh giá về việc thanh quyết toán kinh phí huy động từ nguồn lực ngoài ngân sách.


Trong khi đó, theo báo cáo giám sát thì nguồn huy động từ ngoài ngân sách là rất lớn, gồm 43,6 nghìn tỷ đồng/230 nghìn tỷ đồng phục vụ trực tiếp công tác phòng, chống dịch; 11,6 nghìn tỷ đồng được viện trợ, tài trợ vào Quỹ vaccine phòng, chống Covid-19; 160 triệu liều vaccine, tương đương khoảng 24 nghìn tỷ đồng.


Đại biểu quan tâm liệu báo cáo giám sát tối cao của Quốc hội có trả lời được câu hỏi: Việc quản lý, sử dụng và thanh quyết toán nguồn lực này thế nào, có vướng mắc gì không, còn thừa hay đã hết, nếu còn thì việc xác lập tài sản là sở hữu toàn dân có vướng mắc gì? Chính phủ sẽ giải quyết thế nào nếu không có đủ hồ sơ, thủ tục ghi nhận tài sản?


Do đó, đại biểu Trần Văn Khải đề nghị báo cáo giám sát cần yêu cầu Chính phủ báo cáo bổ sung, tổng hợp, nêu rõ kết quả quản lý, sử dụng và thanh quyết toán đối với nguồn lực huy động từ nguồn ngoài ngân sách.


“Nghị quyết của Quốc hội phải nêu rõ hơn nữa thực trạng, nguyên nhân, trách nhiệm hết sức cụ thể, đồng thời kiến nghị những giải pháp để tháo gỡ dứt điểm các vướng mắc, đặc biệt là việc thanh quyết toán, xác lập giá trị tài sản, sở hữu toàn dân để nhanh chóng quản lý, tránh lãng phí các nguồn lực quý giá đã huy động được”, đại biểu tỉnh Hà Nam kiến nghị.


Phát biểu tại phiên thảo luận, đại biểu Phạm Khánh Phong Lan (TP Hồ Chí Minh) cho rằng, dịch bệnh Covid-19 vừa qua là phép thử cho thấy hiện trạng và thực lực của ngành y tế. Thực tế cho thấy trong huy động và quản lý nguồn lực cho phòng, chống dịch rất khó khăn.


Theo đại biểu, trong quản lý chưa phân biệt được giữa dịch bệnh chưa gặp lần nào với dịch bệnh thông thường. Với những quy định pháp luật vào thời điểm cao điểm dịch bệnh khó có thể thực hiện mua được vaccine.


Đại biểu Phạm Khánh Phong Lan cho rằng, vướng mắc là ở quy chế đấu thầu. 


Tuy nhiên, trong Luật Đấu thầu đang được thảo luận cũng chưa thấy cách nào để gỡ rối. Đến nay trong tình trạng bình thường mà các cơ sở điều trị còn thiếu thuốc, thiếu vaccine… thì không biết bao giờ tình trạng này mới khắc phục được, đại biểu nêu băn khoăn.


Do đó, đại biểu Phạm Khánh Phong Lan cho rằng trong việc quản lý nguồn lực còn có nhiều điểm nghẽn trong sử dụng. 


Cùng với đó còn có những chính sách cần được nhìn nhận lại như trong lúc cần tiêm vaccine lại không cho phép tiêm dịch vụ, hay như lúc thiếu thuốc điều trị thì Bộ Y tế lại chậm trễ trong cấp đăng ký thuốc, dẫn đến tình trạng mua bán bên ngoài và đẩy giá…


Đại biểu cũng đề nghị trong báo cáo cần bổ sung đánh giá để cân bằng giữa xây và chống. Chống tiêu cực nhưng cũng cần quan tâm đúng mức việc xây dựng, “bồi bổ” để ngành y tế mạnh hơn để có thể chống dịch ngay lúc đó và về sau này.


Đại biểu Phạm Khánh Phong Lan nhấn mạnh giám sát tới đây cần đi vào thực tế để trong tương lai, nếu như dịch bệnh quay trở lại sẽ đối phó tốt hơn và bảo vệ được người dân tốt hơn. Do đó, đại biểu đề nghị cần quan tâm xây dựng nền y tế và phải có những cơ chế bảo vệ cho người làm.


Để căn bệnh “sợ trách nhiệm” không lây lan


Cùng chung quan điểm, đại biểu Trần Văn Sáu (Đồng Tháp) nêu thực tế, đại dịch Covid-19 đi qua, bên cạnh những thắng lợi còn để lại nhiều điều đáng để bàn, suy nghĩ và quan trọng hơn là để thay đổi.


Băn khoăn về những việc không hợp lý, không hợp pháp đang được xử lý như thế nào, đại biểu Trần Văn Sáu cũng bày tỏ trăn trở khi sau chống dịch thành công, tiến hành thanh tra, kiểm tra, kiểm toán cho thấy có quá nhiều điều hợp lý trong thời điểm chống dịch nhưng không hợp lý, không hợp pháp trong thời điểm hiện nay, việc ứng xử vấn đề này như thế nào?


Ngoài ra, đại biểu cũng lo ngại căn bệnh “sợ trách nhiệm”, thu mình lại, thụ động, ngại đưa ra quyết định đang lây lan từ ngành y sang những ngành nghề khác. 


Đây là vấn đề rất cần được quan tâm và phải xem xét nhiều chiều.


Đại biểu cho rằng, bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và tạo ra hành lang pháp lý để khuyến khích mọi người tự tin làm việc, Quốc hội cần có cơ chế để người có thẩm quyền đánh giá hành vi người khác cần áp dụng luật để phán xét, nhằm làm cho điều hợp pháp thực sự hợp tình và hợp lý.


Phát biểu thảo luận tại phiên họp, đại biểu Trịnh Xuân An (Đồng Nai) đánh giá cao và đồng tình với báo cáo kết quả giám sát, nhấn mạnh đây không chỉ là chuyên đề giám sát tối cao của Quốc hội mà có ý nghĩa như cuộc tổng kết mang tính chiến lược để rút ra những bài học kinh nghiệm, dự liệu cho những tình huống tương tự xảy ra trong tương lại.


Theo đại biểu, trong giám sát, vấn đề trách nhiệm luôn được đề cao, do đó đại biểu đề nghị cần phải tiếp tục xác định, cụ thể hóa các chủ trương đã được Quốc hội yêu cầu tại Nghị quyết 80 về việc tiếp tục thực hiện một số chính sách trong phòng, chống dịch Covid-19 và sử dụng giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc hết thời hạn hiệu lực từ ngày 1/1/2023 đến ngày 31/12/2024.


Đại biểu nhấn mạnh cần có đánh giá một cách công tâm, thấu tình đạt lý đối với các sai phạm, trách nhiệm, nhất là trách nhiệm của lực lượng tuyến đầu chống dịch.


Bổ sung một số nội dung vào kết quả huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19, đại biểu Trương Thị Ngọc Ánh (Cần Thơ) nêu rõ, đây là tình huống chưa có tiền lệ, đòi hỏi phải có quyết định nhanh chóng, kịp thời, nên không tránh khỏi có những vướng mắc, lúng túng.


“Vì vậy, cần giải quyết những vướng mắc còn lại để đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là những người đã tham gia công tác phòng, chống dịch được thanh thản, xem như đã vượt qua được thử thách khó nhọc, bước vào thực hiện nhiệm vụ mới một cách cởi mở với năng lực tích cực”, đại biểu Trương Thị Ngọc Ánh kiến nghị./.


Bình An

PHẢN BÁC NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM



Vấn đề Đảng Cộng sản cầm quyền, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và mối quan hệ giữa hai thành tố này trong hệ thống chính trị luôn bị các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước ra sức xuyên tạc, chống phá.


Việc nhận diện và đấu tranh vạch trần những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc về vấn đề này tuy không mới nhưng luôn có tính thời sự, bởi “chiêu trò cũ” nhưng “thủ đoạn mới” rất tinh vi, khó lường. Vì vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc của chúng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa là yêu cầu cấp thiết hiện nay.


Bằng những hình thức, phương tiện khác nhau, chúng xuyên tạc rằng: Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng thực chất “Đảng bao biện làm thay Nhà nước” và rằng “Chính phủ, Quốc hội làm theo sự chỉ đạo của đảng”, các tổ chức chính trị - xã hội khác trong hệ thống chính trị đều do Đảng lập nên và “theo đuôi đảng”…


Thực chất, những luận điệu trên là nhằm xuyên tạc mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản cầm quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với mục đích chính trị rõ ràng: Tạo “dư luận” làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; gây mất ổn định chính trị - xã hội, dẫn tới rối loạn, khủng hoảng và sụp đổ; thay đổi thể chế chính trị, xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và các thành tố khác trong hệ thống chính trị...


Nhận diện vấn đề trên là một hoạt động khó khăn, phức tạp. Bởi lẽ, chúng sử dụng những phương thức rất tinh vi, như: Cấu kết giữa các tổ chức, lực lượng lưu vong bên ngoài với các tổ chức, lực lượng, phần tử phản động, cơ hội chính trị trong nước. Bên ngoài, chúng đẩy mạnh các hoạt động “diễn biến hòa bình”, thông qua các hoạt động ngoại giao, như giao lưu kinh tế, văn hóa, đầu tư, viện trợ để hậu thuẫn, kích động chống phá bên trong làm chuyển hóa nội bộ. Trong nước, các tổ chức, lực lượng phản động, phần tử cơ hội chính trị tăng cường các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc; cung cấp thông tin cho các tổ chức, lực lượng bên ngoài; công khai chống phá, thách thức chính quyền; móc nối, nhận tài trợ từ bên ngoài, lập hội, nhóm chống đối trên internet, mạng xã hội, lôi kéo cán bộ, đảng viên, trí thức, văn nghệ sĩ, hưu trí, luật sư... tham gia.


Từ việc nhận rõ âm mưu, thủ đoạn, bản chất, phương thức và những biểu hiện cụ thể của những luận điệu xuyên tạc, chống phá về mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản cầm quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, chúng ta khẳng định rằng, đó là những luận điệu xuyên tạc, vu cáo, bịa đặt, hoàn toàn sai trái, không có cơ sở.


Về mặt lý luận, chúng ta biết rằng, đảng cầm quyền là khái niệm thuộc về khoa học chính trị, dùng để chỉ một đảng chính trị đại diện cho giai cấp đang nắm quyền lực và lãnh đạo chính quyền nhà nước để tổ chức, quản lý đất nước và xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền” để chỉ rõ nguồn gốc, bản chất và nhấn mạnh vị thế, vai trò của Đảng với tư cách là tổ chức đảng duy nhất trong hệ thống chính trị ở Việt Nam nắm giữ quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền... phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Ở Việt Nam từ trước đến nay chưa có một đảng chính trị nào được tổ chức chặt chẽ, khoa học, được nhân dân hết lòng ủng hộ, giúp đỡ ngay từ khi mới ra đời như Đảng Cộng sản Việt Nam.


Vấn đề “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên được nêu ra tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (ngày 29-11-1991) và tiếp tục được khẳng định trong các văn kiện khác của Đảng qua các kỳ đại hội. Tại Hội nghị Trung ương 6, khóa XIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết về “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”. Theo đó, mục tiêu tổng quát là: “Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”. 


Vai trò cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng được quy định trong Hiến pháp và Pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảng cầm quyền thông qua sự lãnh đạo các cơ quan công quyền chứ không tự mình biến thành Nhà nước, đứng trên Nhà nước hoặc làm thay Nhà nước. Thực tế này bác bỏ quan điểm sai trái, thù địch khi đồng nhất quyền lực của Đảng với quyền lực của Nhà nước và mưu toan phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Đến lượt mình, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phát huy vai trò là trung tâm của hệ thống chính trị, sử dụng hệ thống pháp quyền xã hội chủ nghĩa để điều hành đất nước, quản lý xã hội và quản lý các tổ chức đảng, thanh tra, giám sát việc tuân theo pháp luật của các đảng viên và các tổ chức đảng, kiểm soát sự hoạt động của Đảng trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật.


Qua đây, có thể thấy rằng sự lãnh đạo của Đảng không phải là “độc đoán, chuyên quyền”, vì bên cạnh đó có sự tác động to lớn trở lại của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị. Điều này bác bỏ hoàn toàn luận điệu xuyên tạc rằng “Đảng đứng trên pháp luật”; Nhà nước, Quốc hội và các tổ chức chính trị - xã “theo đuôi đảng”, làm theo sự chỉ đạo của Đảng.


Về mặt thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng hơn 93 năm qua, đặc biệt là sau hơn 35 năm đổi mới, Đảng luôn xác định phương châm tiến hành đổi mới đồng bộ, đổi mới chính trị gắn với đổi mới kinh tế, đổi mới hệ thống chính trị cho từng bước đi với mỗi chặng đường thích hợp. Nhờ vậy, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. “Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”. 


Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, trở thành nước đang phát triển, hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng. Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa, xã hội có bước phát triển mới; đời sống vật chất lẫn tinh thần của nhân dân từng bước được nâng lên; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được củng cố, kiện toàn; độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững và phát huy. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực ngày càng được nâng cao.


Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận rằng: Vai trò cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội có những mặt, những khâu chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới. Trong mối quan hệ với tổ chức hoạt động của Nhà nước, vẫn còn tình trạng chồng chéo và buông lỏng quản lý nên hiệu quả lãnh đạo của Đảng vẫn chưa được phát huy ở mức tốt nhất; chưa phân rõ chức năng, quyền hạn giữa Đảng lãnh đạo với Nhà nước quản lý; bộ máy Đảng, bộ máy hành chính còn cồng kềnh, nhiều tầng nhiều nấc làm cho việc quản lý chưa thật nhanh nhạy và hiệu quả; vẫn còn những khe, kẽ để các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng xuyên tạc chống phá.


Trong những năm tiếp theo, để tiếp tục đấu tranh vạch trần những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị chống phá về mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản cầm quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:


Một là, quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng về giải quyết mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong hệ thống chính trị. Từ đó, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể, các lực lượng, cán bộ, đảng viên và nhân dân về mối quan hệ tự nhiên, máu thịt không thể tách rời giữa Đảng - Nhà nước - nhân dân.


Để thực hiện tốt biện pháp này, nội dung tuyên truyền, giáo dục phải có trọng tâm, trọng điểm, phải là những nội dung cơ bản, cốt lõi của mối quan hệ để dễ nhớ, dễ thực hiện trong đấu tranh. Chú trọng giáo dục đường lối, quan điểm của Đảng trong giải quyết mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong hệ thống chính trị. Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, giáo dục thật nghiêm túc, sát với từng đối tượng, bảo đảm chặt chẽ, phù hợp và có chất lượng, nhưng không máy móc, sơ cứng và tránh được sự hình thức.


Hai là, thường xuyên nhận diện, kịp thời đấu tranh vạch trần những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động về mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản cầm quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong điều kiện mới. Đây là biện pháp cần được tiến hành thường xuyên, liên tục nhằm phát hiện những âm mưu, thủ đoạn mới của các thế lực thù địch, phản động. Từ đó, có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo và tiến hành đấu tranh phản bác kịp thời, tránh để biến tướng, kéo dài sẽ dẫn đến gặp nhiều khó khăn, phức tạp trong đấu tranh và hiệu quả không cao.


Để thực hiện tốt biện pháp này, cần thực hiện đồng bộ nhiều nội dung, trong đó phải đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận ở các trung tâm, viện nghiên cứu, các học viện, nhà trường trong cả nước. Đặc biệt, phát huy vai trò, trách nhiệm của các nhà khoa học, các chuyên gia đầu ngành có trình độ lý luận chuyên sâu, có tri thức và kinh nghiệm trong đấu tranh tư tưởng, lý luận.


Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng để đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, lấy cơ quan tuyên giáo các cấp và lực lượng 35 làm nòng cốt. Đây là biện pháp quyết định đến chất lượng, hiệu quả của việc đấu tranh phản bác những luận điệu về mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản cầm quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đó là sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo; cơ quan hướng dẫn chỉ đạo, điều hành, quản lý; cơ quan nghiên cứu; đội ngũ các nhà khoa học, chuyên gia; cơ quan thông tấn, báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình...; trong đó, lấy cơ quan tuyên giáo các cấp và lực lượng 35 làm nòng cốt, chủ công để thực hiện đấu tranh đúng, trúng và hiệu quả.


Bốn là, bảo đảm tốt việc trang bị cơ sở vật chất, công cụ, phương tiện và công tác chính sách, bảo đảm môi trường thuận lợi cho công tác đấu tranh. Để bảo đảm đấu tranh hiệu quả, cần tăng cường đầu tư trang thiết bị, công nghệ, phương tiện cho các lực lượng tham gia đấu tranh, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho họ trong đấu tranh, nhất là trên không gian mạng, không gian báo chí, tuyên truyền và định hướng dư luận. Bên cạnh đó, cũng cần quan tâm đúng mức đến lực lượng trực tiếp, trực diện đấu tranh, gồm cả bảo đảm thông tin nội dung, chỉ đạo định hướng, các điều kiện bảo đảm vật chất và tinh thần... Trong đó, cần chú ý đến việc động viên khen - thưởng, chế độ chính sách bảo đảm nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm và hiệu quả đấu tranh của lực lượng này.


Những quan điểm sai trái, thù địch về mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản cầm quyền và Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thuộc về cuộc đấu tranh ý thức hệ, nó diễn ra lâu dài, với nhiều phương thức, thủ đoạn thâm độc. Cho dù trong thực tiễn, chúng ta đã giải quyết mối quan hệ này tốt đến đâu thì chúng vẫn ra sức chống phá và không ngừng xuyên tạc. Cho nên, vấn đề nằm ở chỗ, chúng ta nhận thức được mặt tích cực, khắc phục những nhược điểm, hạn chế và có giải pháp đúng đắn giải quyết tốt mối quan hệ mật thiết này chính là cơ sở khoa học để đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch./. 


Biên Cương

CÁC HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO ĐA DẠNG, PHONG PHÚ ĐANG DIỄN RA BÌNH THƯỜNG TRÊN LÃNH THỔ VIỆT NAM



Những ngày này, đại lễ Phật đản – Phật lịch 2567 đã được tổ chức trang trọng ở khắp các cơ sở Phật giáo trên cả nước. Dịp này, Đức Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có Thông điệp kêu gọi tất cả tăng ni, phật tử hãy cùng nhau dấn thân hơn nữa trên con đường thực hành Bồ-tát hạnh. Mỗi tăng ni, phật tử các giới ra sức làm các thiện sự, tích cực góp phần xây dựng đất nước, kiến tạo hòa bình tự thân để kết nên một đài sen cúng dường Đức Thế Tôn trong mùa Phật đản năm nay.


Với đường hướng gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, Giáo hội Phật giáo Việt Nam luôn hướng dẫn tăng ni, phật tử sống theo giáo lý Phật giáo, chấp hành pháp luật Nhà nước, làm tròn nghĩa vụ công dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước tại địa phương, nhất là các hoạt động an sinh xã hội, thực hiện nếp sống văn minh.


Không chỉ với mùa Phật đản, dịp lễ Giáng sinh hằng năm bây giờ cũng trở thành một dịp lễ hội của rất nhiều người chung vui với đồng bào Công giáo. Với đồng bào Chăm theo đạo Bàlamôn, lễ hội Katê còn được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Tháng lễ Ramadan của đồng bào Chăm theo đạo Hồi cũng được cộng đồng tôn trọng, các cấp chính quyền tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào thực hành nghi lễ,


Có thể kể ra rất nhiều các hoạt động tôn giáo đa dạng, phong phú đã và đang diễn ra bình thường trên lãnh thổ Việt Nam. Những điểm chung của các hoạt động tôn giáo đó là phù hợp với văn hóa truyền thống của dân tộc, đáp ứng được nhu cầu đời sống tín ngưỡng tinh thần trong cộng đồng và được pháp luật bảo hộ.


Nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, ngay từ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1946) và các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau này đều luôn khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong các quyền cơ bản của con người. Hiến pháp 2013 quy định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền của mọi người. Nhằm cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 và phù hợp với đời sống thực tiễn hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo ngày 18/11/2016. Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.


Trên thực tế, quyền tự do, tín ngưỡng quy định trong pháp luật đã được thực thi đầy đủ. Bằng chứng là đến nay, Nhà nước Việt Nam đã công nhận 36 tổ chức tôn giáo, cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 4 tổ chức và 1 pháp môn tu hành thuộc 16 tôn giáo. Hiện cả nước có trên 26,5 triệu tín đồ tôn giáo (chiếm 27% dân số cả nước), hơn 54.000 chức sắc, 135.000 chức việc và 29.658 cơ sở thờ tự; hàng ngàn nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung, trong đó có các nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam.


Có thể thấy, các tôn giáo đã được tạo điều kiện tối đa để phát triển đáp ứng nhu cầu của các tín đồ. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những hội nhóm, tổ chức nhân danh tôn giáo để hoạt động trái với thuần phong mỹ tục, văn hóa truyền thống của dân tộc, xâm phạm lợi ích Nhà nước, cộng đồng và các cá nhân nên không được pháp luật công nhận. Có thể kể đến như tà đạo Hà Mòn ở một số tỉnh Tây Nguyên, tà đạo Giê Sùa, bà cô Dợ ở một số tỉnh Tây Bắc… Các đối tượng chủ chốt của các tà đạo này tuyên truyền chủ yếu những nội dung mê tín dị đoan, đả kích các tôn giáo chính thống, chê bai phong tục truyền thống của đồng bào, tuyên truyền về ngày tận thế, kích động li khai tự trị… nên cần phải xử lý nghiêm minh theo pháp luật.


Ở các nước trên thế giới, việc quản lý các tôn giáo bằng pháp luật và xử lý những hành vi lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật cũng là hết sức bình thường. Mới đây, tại Kenya, chính quyền đã bắt giữ 26 nghi phạm liên quan đến giáo phái “tuyệt thực”, xúi giục các tín đồ bỏ đói con cái và nhịn ăn để có thể lên thiên đường trước ngày tận thế. Giới chức đã tìm thấy 201 thi thể và số người được báo cáo mất tích là 610 người. Mấy năm trước, cảnh sát Italy cũng đã phục kích một giáo phái chuyên dụ dỗ những cô gái trẻ, nhiều trong số đó là trẻ em và thực hiện nhiều hành vi lạm dụng tình dục đối với họ.


Bởi vậy, những ý kiến cho rằng Việt Nam chưa đảm bảo được tự do tôn giáo chỉ có thể là cố tình xuyên tạc hoặc chưa có thông tin đầy đủ. Như Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng mới đây đã khẳng định: Việt Nam ghi nhận việc Báo cáo Tự do tôn giáo quốc tế năm 2020 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã đề cập đến những nỗ lực của Việt Nam trong việc đảm bảo và thúc đẩy đời sống tôn giáo, tín ngưỡng. Tuy nhiên, Báo cáo vẫn đưa ra một số nhận định thiếu khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế tại Việt Nam. Việt Nam luôn sẵn sàng trao đổi thẳng thắn, cởi mở và trên tinh thần xây dựng với Hoa Kỳ về những vấn đề còn có sự khác biệt để tăng cường hiểu biết và đóng góp vào sự phát triển của quan hệ Đối tác toàn diện giữa hai nước./.


Thanh Thủy

Thứ Bảy, 27 tháng 5, 2023

VỊ THẾ MỚI CỦA VIỆT NAM



Chỉ trong vòng 7 năm, Việt Nam 3 lần được mời tham dự Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nước công nghiệp phát triển (G7) mở rộng, trong đó 2 lần được mời với tư cách là quốc gia chứ không phải đại diện cho một tổ chức hay một nhóm nước trong khu vực.


Đây là bằng chứng rõ nhất cho thấy cộng đồng quốc tế thực sự coi trọng vai trò của Việt Nam với vị thế ngày càng cao trong khu vực và trên thế giới, đánh giá cao chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế cũng như các nỗ lực và đóng góp mang tính xây dựng, có trách nhiệm của Việt Nam vào giải quyết các thách thức chung toàn cầu.


Được coi là một trong những tổ chức có ảnh hưởng nhất trên hành tinh, G7 là diễn đàn giúp các nước phát triển hàng đầu thế giới tìm kiếm sự đồng thuận và thống nhất quan điểm, lập trường về các vấn đề khu vực và quốc tế. Với tiềm lực và ảnh hưởng bao trùm khi chiếm tới 47% GDP toàn cầu và hơn một nửa giá trị tài sản thế giới, G7 cùng với Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) có vai trò quan trọng trong việc định hình, củng cố cấu trúc và quản trị toàn cầu.


Không chỉ tăng cường hợp tác nội khối, G7 còn tích cực thúc đẩy các nước đang phát triển tham gia và đóng góp vào việc giải quyết các thách thức toàn cầu. Hội nghị thượng đỉnh G7 mở rộng đã đáp ứng xu thế đó với sự xuất hiện của đại diện từ các nước đang phát triển. Tuy nhiên, tạo dựng đủ uy tín và năng lực để được mời tham dự diễn đàn quan trọng này, lại với tần suất khá dày như Việt Nam, thì không phải ai cũng có cơ hội. 


Gần 4 thập kỷ đổi mới đã đem đến cho Việt Nam một diện mạo hoàn toàn khác. Đã qua rồi thời kỳ đất nước chỉ được nhắc đến như địa chỉ cần ưu tiên cho các khoản viện trợ phát triển với những điều kiện ưu đãi. Mở cửa và hội nhập đã tạo dựng một vị thế mới cho Việt Nam. Cuối năm 2022, dựa trên các yếu tố quy mô kinh tế ngày càng tăng, quyền lực mềm và sức ảnh hưởng được công nhận rộng rãi, hãng US News & World Report đã đưa ra đánh giá Việt Nam là quốc gia hùng mạnh thứ 30 trên thế giới.


Bất chấp tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 và nguy cơ suy thoái của nền kinh tế thế giới, năm 2022, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng mà báo chí thế giới mô tả là “đáng kinh ngạc” với 8,02%. Lần đầu tiên, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vượt con số 700 tỷ USD, đưa Việt Nam vào nhóm 30 nước xuất nhập khẩu lớn nhất thế giới, theo bảng xếp hạng của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Trong lĩnh vực đầu tư, “miền đất hứa” Việt Nam tiếp tục trở thành trọng điểm quan tâm của nhiều tập đoàn hàng đầu thế giới, như Samsung, Canon, LG, Sumitomo, Foxconn, VSIP...


Đó là cơ sở để Việt Nam tự tin bước vào Hội nghị thượng đỉnh G7 mở rộng, nắm lấy cơ hội để tiếp tục khẳng định lập trường nhất quán, nỗ lực hết sức mình cùng cộng đồng quốc tế đề xuất, triển khai các biện pháp thực chất, hiệu quả nhằm tăng cường hợp tác toàn cầu và khu vực trong việc duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững sau đại dịch Covid-19, cũng như xử lý các vấn đề toàn cầu trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, như bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực, chống biến đổi khí hậu, phòng, chống dịch bệnh, bình đẳng giới...


Thực tế cho thấy những quan điểm, sáng kiến, đề nghị mà Việt Nam đưa ra trong phát biểu của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại hội nghị, nhất là những thông điệp về phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm phát thải và chuyển đổi năng lượng, cho thấy một vai trò mới của Việt Nam. Đã qua rồi thời Việt Nam đến các diễn đàn quốc tế như người quan sát và tìm hiểu. Với đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ quốc tế, với tinh thần trách nhiệm, Việt Nam cho thấy mình là một đối tác luôn tham gia chủ động, tích cực, nỗ lực đóng góp cho hòa bình, phát triển và các quan tâm chung của cộng đồng quốc tế.


Đây chính là sự cụ thể hóa trên thực tế những định hướng lớn mà Đảng và Nhà nước đã vạch ra trong giai đoạn hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng hơn. Đó là hoạt động đối ngoại đa phương phải chuyển mạnh từ “tham gia” sang “góp phần định hình các cấu trúc mới, luật chơi mới”, mà các trọng tâm là đảm nhận vai trò rộng lớn hơn thông qua các sáng kiến, ý tưởng, đóng góp chính sách, nhân lực, tài chính; chủ trì, điều phối, khởi xướng ý tưởng, dẫn dắt; hoàn tất các cam kết quan trọng như Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc về phát triển bền vững, Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu...


Bước vào những diễn đàn lớn như Hội nghị thượng đỉnh G7 mở rộng cũng đem lại những cơ hội cho Việt Nam trong việc tăng cường hợp tác với các nước G7, nhất là trong chuyển đổi mô hình kinh tế và phục hồi kinh tế hậu Covid. Việt Nam đang triển khai nhiều biện pháp tổng thể, toàn diện trong lĩnh vực chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh, tuần hoàn. Đây là những lĩnh vực mà G7 có nhiều kinh nghiệm, công nghệ, nguồn lực mà Việt Nam có thể tận dụng. G7 hiện đã đưa Việt Nam vào danh sách các nước ưu tiên hợp tác năng lượng.


Mỗi sự kiện đối ngoại là một bước tiến góp phần củng cố thêm vị thế của Việt Nam. Đó là một Việt Nam đang vững bước đi lên với tư thế mới của người làm chủ và biết làm chủ vận mệnh của mình; với vị thế mới của một đất nước độc lập, tự chủ, hòa bình, ổn định đang trên đà phát triển; với tầm ảnh hưởng mới của một đối tác đang chuyển mạnh từ “tham gia tích cực” lên “chủ động đóng góp xây dựng, định hình các cấu trúc mới, luật chơi mới”, một đối tác luôn có trách nhiệm trong các “sân chơi” khu vực và toàn cầu./. 


Biên Cương

ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI: CẦN GIÁM SÁT LỜI HỨA CỦA CÁC LÃNH ĐẠO ĐẦU NGÀNH



Thời gian qua, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã rất quan tâm chỉ đạo thực hiện mục tiêu đổi mới và đẩy mạnh công tác giám sát nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.


Không phải cứ tổ chức nhiều cuộc giám sát là đem lại hiệu quả


Thảo luận ở hội trường về dự kiến Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2024 tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV vào sáng 27/5, theo đại biểu Phạm Đình Thanh, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Kon Tum, công tác giám sát tối cao, giám sát chuyên đề đã được đổi mới, tăng cường và thực hiện có hiệu quả; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của cử tri ngày càng đổi mới và tăng cường được cử tri và nhân dân cả nước đánh giá cao.


Đại biểu Thanh đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo đẩy mạnh và thực hiện chặt chẽ hơn hoạt động giám sát việc chấp hành pháp luật về xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở cấp trung ương và địa phương; tiếp tục quan tâm, giám sát việc thực hiện lời hứa của các vị Bộ trưởng, trưởng ngành, các thành viên của Chính phủ bởi đây là vấn đề cử tri và nhân dân cả nước đặc biệt quan tâm.


Đại biểu Nguyễn Đại Thắng, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hưng Yên cho biết cần quan tâm, làm tốt hơn nữa công tác chuẩn bị giám sát, đề cương xây dựng báo cáo giám sát cần chi tiết, yêu cầu báo cáo cụ thể các nội dung giám sát, cần thành lập tổ công tác, giúp việc của đoàn giám sát là những cán bộ, chuyên gia, các Đại biểu Quốc hội có chuyên môn sâu về lĩnh vực giám sát.


Bên cạnh đó, đại biểu Thắng cho rằng cần tích cực thu thập các kết luận thanh kiểm tra, kiểm toán về nội dung giám sát. Tổ công tác của đoàn giám sát cần làm việc trước với cơ quan đơn vị liên quan, xác minh, làm rõ những vấn đề cần thiết trước khi đoàn giám sát làm việc chính thức với đơn vị chịu sự giám sát.


"Sau giám sát, phải ban hành kết luận Nghị quyết của cuộc giám sát, Nghị quyết kết luận giám sát phải nêu cụ thể các kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế, chỉ rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan, có kiến nghị, yêu cầu cụ thể," ông Thắng góp ý.


Ngoài ra, trong quá trình giám sát, nếu phát hiện có vi phạm, vị đại biểu đoàn Hưng Yên kiến nghị đoàn giám sát cần báo cáo kịp thời với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội để chuyển vụ việc sang cơ quan có thẩm quyền để xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

Theo đại biểu Nguyễn Thị Kim Bé, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Kiên Giang, trong tổ chức thực hiện của mỗi chuyên đề giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội còn có những bất cập như vừa phân công cho Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức giám sát vừa phân công cho Thường trực Hội đồng nhân dân tổ chức giám sát. Như vậy, cùng một lúc, cùng một chủ đề và cùng một đơn vị chịu sự giám sát có 2 đoàn cơ quan dân cử tại địa phương giám sát.


“Không phải tổ chức nhiều cuộc giám sát, nhiều cuộc làm việc là đem lại hiệu quả cho cuộc giám sát mà muốn nâng cao chất lượng giám sát thì phải nâng cao vai trò, trách nhiệm của từng thành viên trong đoàn giám sát, phải nghiên cứu, phân tích, đánh giá cho trúng vấn đề, kiến nghị phù hợp và đeo bám để theo dõi việc giải quyết của cơ quan chức năng,” bà bày tỏ quan điểm.


Giám sát là khâu trọng tâm, then chốt của Quốc hội


Đại biểu Trần Văn Khải, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Nam cho biết về các hình thức giám sát, điểm mới là thành lập các tổ công tác, hoạt động độc lập, đi đến tận cùng vấn đề, rõ vấn đề cần có các tổ công tác này. Đại biểu cho rằng cần tính toán làm sao để tránh làm phiền địa phương, chịu trách nhiệm với vai trò, vị trí của mình, với mục tiêu làm rõ vấn đề trong báo cáo chưa có.


Thừa nhận hiện kinh phí dành cho các Đoàn Đại biểu Quốc hội tại địa phương còn ít ỏi, Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hải Dương đề nghị Quốc hội rà soát, xem xét nâng mức kinh phí cho hoạt động giám sát để phù hợp với thực tiễn hiện nay.


Đại biểu Nga cũng đề nghị việc tham gia Đoàn giám sát của đại diện các cơ quan hữu quan, đặc biệt là lãnh đạo các bộ tham gia vừa với tư cách là chuyên gia tham gia Đoàn giám sát, vừa với tư cách là cơ quan chịu sự giám sát, đã ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng giám sát.


Phát biểu kết luận nội dung thảo luận, theo Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương, qua thảo luận cho thấy, đa số ý kiến thống nhất Tờ trình và dự kiến chương trình giám sát; ghi nhận việc chuẩn bị báo cáo một cách công phu. Các đại biểu cũng cơ bản nhất trí với các nhận định đánh giá về kết quả hoạt động giám sát năm 2022 và những tháng đầu năm 2023 với nhiều đổi mới hiệu quả; bày tỏ cơ bản thống nhất với dự kiến của năm 2024.


Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ phân công các cơ quan Quốc hội nghiên cứu để tham mưu để điều hòa các hoạt động giám sát và tăng cường công tác bảo đảm cho hoạt động giám sát.


“Việc triển khai Chương trình giám sát 2024 với nhiều nội dung tiếp tục đổi mới, cải tiến sẽ là cơ sở quan trọng để sửa đổi các quy định pháp luật về hoạt động giám sát nói riêng cũng như hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung theo đúng tinh thần giám sát là khâu trọng tâm, then chốt trong hoạt động của Quốc hội,” ông Phương nhấn mạnh./.


Thanh Loan.

 HƯỚNG DẪN KỸ NĂNG PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY VÀ THOÁT NẠN CHO NGƯỜI DÂN


                                    Ảnh: TTXVN

Tỉnh Bạc Liêu đang đẩy mạnh tuyên truyền với nội dung, hình thức phong phú, đa dạng đến người dân về nguy cơ xảy ra cháy tại các cơ sở, hộ gia đình, nhà ở kết hợp sản xuất kinh doanh; hướng dẫn kiến thức, kỹ năng phòng cháy, chữa cháy, thoát nạn, sử dụng điện an toàn để công tác phòng, chống cháy nổ trên địa bàn.


Qua đó, góp phần giảm thiểu những ảnh hưởng của việc cháy, nổ đến đời sống, tài sản của người dân, nhất là đang trong thời điểm học sinh, sinh viên nghỉ hè, nhu cầu sử dụng điện tăng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ cháy, nổ.


Đại tá Bùi Xuân Khởi, Phó Giám đốc Công an tỉnh Bạc Liêu đã chỉ đạo lực lượng Công an các cấp quán triệt, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả chủ trương của Đảng, Nhà nước về tăng cường phòng cháy, chữa cháy trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt hiện nay; đẩy mạnh tuyên truyền với nội dung, hình thức phong phú, đa dạng đến người dân về nguy cơ xảy ra cháy tại các cơ sở, hộ gia đình, nhà ở kết hợp sản xuất kinh doanh; hướng dẫn kiến thức, kỹ năng phòng cháy, chữa cháy, thoát nạn, sử dụng điện an toàn cho người dân.


Theo Trung tá Nguyễn Tấn Đạt, Phó Trưởng Công an thành phố Bạc Liêu, thành phố là địa bàn có mật độ dân cư đông. Do đó, để phòng ngừa nguy cơ xảy ra cháy, nổ, Công an thành phố đã chỉ đạo Công an các phường, xã tăng cường xây dựng các mô hình phòng cháy, chữa cháy ở địa bàn dân cư như: Tổ liên gia an toàn phòng cháy, chữa cháy, điểm chữa cháy công cộng, khu dân cư an toàn phòng cháy, chữa cháy... Qua đó, nhằm xây dựng, duy trì và phát huy hiệu quả phong trào toàn dân tham gia phòng cháy, chữa cháy, tạo điều kiện mỗi hộ gia đình được trang bị đầy đủ phương tiện, trang thiết bị chữa cháy ban đầu để sẵn sàng, kịp thời đáp ứng yêu cầu chữa cháy tại chỗ.


Theo đó, lãnh đạo Công an tỉnh đã chỉ đạo Công an các địa phương, đến ngày 30/9/2023 vận động 50% hộ gia đình tự trang bị một bình chữa cháy và mỗi gia đình ít nhất có một người được tập huấn về kỹ năng chữa cháy, thoát nạn; đến 31/12/2023 hoàn thành 100% trên toàn tỉnh. Công an các địa phương sớm hoàn thành xây dựng Tổ liên gia an toàn phòng cháy, chữa cháy trước ngày 30/6/2023 và tổ chức diễn tập cho 100% Tổ liên gia an toàn phòng cháy, chữa cháy trong quý III/2023; thực tập phương án chữa cháy, phương án cứu hộ, cứu nạn cho Ban quản trị nhà chung cư, đơn vị quản lý nhà tập thể; vận động, hướng dẫn hộ gia đình có “chuồng cọp” mở lối ra khẩn cấp, 100% nhà từ 2 tầng trở lên có lối thoát nạn khẩn cấp thứ 2.


Thời gian qua, Phòng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và Cứu hộ, cứu nạn (Công an tỉnh Bạc Liêu) đã thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng ngừa cháy, nổ trên địa bàn. Trong đó, tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và kiến thức phòng cháy, chữa cháy, nội quy, quy định về phòng cháy chữa cháy trong sản xuất, kinh doanh đến cán bộ, công nhân viên, các hộ kinh doanh trên địa bàn. Đồng thời, đơn vị thường xuyên tổ chức tự kiểm tra an toàn phòng cháy, chữa cháy để phát hiện và khắc phục kịp thời các nguy cơ; xây dựng và củng cố hoạt động của lực lượng phòng cháy, chữa cháy tại chỗ, trang bị phương tiện, huấn luyện nghiệp vụ để lực lượng này có khả năng phát hiện và dập tắt cháy ngay từ khi mới phát sinh; chuẩn bị phương án thoát nạn cho người và tài sản khi cháy xảy ra; tăng cường tuần tra, canh gác 24/24 giờ tại cơ sở và khu dân cư, đặc biệt là vào thời điểm ngoài giờ hành chính, ban đêm, ngày nghỉ để kịp thời phát hiện và dập tắt cháy ngay từ khi mới phát sinh.


Lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và Cứu nạn cứu hộ đã vận động các hộ gia đình bảo đảm và duy trì các điều kiện an toàn về phòng cháy, chữa cháy để loại trừ và giảm đến mức thấp nhất nguy cơ cháy, nổ; trang bị và biết cách sử dụng bình chữa cháy cầm tay; cẩn trọng khi sử dụng nguồn lửa, nguồn nhiệt, thắp hương thờ cúng, đốt vàng mã, các thiết bị sinh nhiệt cao (như: bóng điện tròn, bàn là, bếp điện…); không để các vật liệu dễ cháy gần nguồn lửa, nguồn nhiệt; trước khi rời khỏi nhà và trước khi đi ngủ phải kiểm tra nơi đun nấu, thờ cúng, tắt các thiết bị điện không cần thiết.../.


Thảo Nguyên

ĐỀ XUẤT BỎ THI THĂNG HẠNG CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP VIÊN CHỨC

 

Viên chức đáp ứng đủ tiêu chuẩn, điều kiện của hạng cao hơn liền kề có thể được xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp mà không phải thi thăng hạng, theo đề xuất của Bộ Nội vụ.


Bộ Nội vụ vừa báo cáo Chính phủ việc tiếp thu, hoàn thiện dự thảo Nghị định về cán bộ, công chức, viên chức.


Trong đó, Bộ này đề xuất sửa đổi quy định về thi nâng ngạch công chức, thăng hạng và chuyển đổi chức danh nghề nghiệp viên chức để cải cách thủ tục hành chính, giảm gánh nặng cho đội ngũ công chức, viên chức.


Cụ thể, đề xuất bắt buộc tổ chức thi trắc nghiệm kiến thức chung trên máy vi tính, đồng thời bỏ thi môn tin học. Đối với môn ngoại ngữ nếu không có sự thay đổi về trình độ ngoại ngữ theo yêu cầu của ngạch đang giữ với ngạch dự thi thì không phải tổ chức thi.


Đối với viên chức, Bộ Nội vụ đề xuất bỏ hình thức thi thăng hạng. Viên chức đáp ứng đủ tiêu chuẩn, điều kiện của hạng cao hơn liền kề sẽ được xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp.


Sửa đổi quy định để tăng cường phân cấp trong tổ chức tuyển dụng, quản lý, sử dụng công chức, viên chức. Đối với công chức thì phân cấp cho cơ quan quản lý công chức căn cứ vào danh mục vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức đã được phê duyệt chủ trì hoặc phân cấp, ủy quyền tổ chức thi nâng ngạch từ chuyên viên hoặc tương đương lên chuyên viên chính hoặc tương đương mà không cần có ý kiến của Bộ Nội vụ.


Đối với viên chức, cơ quan quản lý viên chức chủ trì xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp hạng I và bổ nhiệm, xếp lương viên chức loại A3 mà không cần phải có ý kiến của Bộ Nội vụ.


Việc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp hạng II và hạng III được giao cơ quan được phân cấp thẩm quyền tuyển dụng thực hiện để phù hợp với việc bỏ quy định về thi thăng hạng, đồng thời đẩy mạnh chủ trương phân cấp.


Dự thảo bổ sung quy định về giấy xác nhận về danh mục các văn bằng, chứng chỉ và các giấy tờ khác có liên quan đã có bản sao công chứng hoặc bản gốc trong hồ sơ.


Theo đó, đối với những văn bằng, chứng chỉ đã có trong hồ sơ thì cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ của đơn vị có trách nhiệm xác nhận; giấy xác nhận có giá trị thay thế các bản sao và được sử dụng trong quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại và trong các công tác cán bộ khác.


Bộ Nội vụ cho rằng, quy định này nhằm giải quyết thực trạng cán bộ, công chức, viên chức phải nộp quá nhiều bản sao công chứng trong quá trình công tác trong khi đã có trong hồ sơ cán bộ khi được tuyển dụng, tiếp nhận.


2 nguyện vọng khi thi công chức


Bộ Nội vụ đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị định số 115/2020 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức và Nghị định 138/2020 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức nhằm cắt giảm thủ tục hành chính, giải quyết khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn hiện nay.


Theo đó, cho phép thí sinh tham dự đăng ký 2 nguyện vọng ở 2 vị trí việc làm trong cùng một kỳ thi trong trường hợp 2 vị trí việc làm đó có cùng yêu cầu về tiêu chuẩn, điều kiện tuyển dụng và trong cùng một hội đồng thi.


Đồng thời sẽ bắt buộc tổ chức thi trên máy vi tính đối với kiểm tra kiến thức, năng lực chung; bỏ môn thi tin học; đối với các vị trí việc làm không yêu cầu ngoại ngữ thì không phải tổ chức thi ngoại ngữ.


Bổ sung quy định miễn thi ngoại ngữ trong trường hợp có chứng chỉ ngoại ngữ được cơ quan có thẩm quyền quy định có giá trị tương đương với trình độ theo yêu cầu của vị trí việc làm dự tuyển.


Bộ Nội vụ cũng đề xuất bổ sung quy định cho phép tuyển dụng đối với người có kết quả đạt trên 50% tổng số điểm thấp hơn liền kề so với kết quả tuyển dụng của người trúng tuyển cuối cùng trong danh sách nếu phát sinh nhu cầu tuyển dụng trong cùng năm tuyển dụng với vị trí việc làm tương ứng…


Danh Thao

Thứ Năm, 25 tháng 5, 2023

NGƯỜI CÓ UY TÍN - CẦU NỐI VỮNG CHẮC Ý ĐẢNG, LÒNG DÂN

 

                                         Ảnh: TTXVN

Người có uy tín ở Bình Phước đã trở thành “cầu nối” góp phần trong công tác tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; đồng thời, tích cực tham gia các phong trào phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh trật tự ở địa phương.


Bà Thị Mương (57 tuổi), người có uy tín dân tộc S’tiêng ở ấp Bù Dinh (xã Thanh An, huyện Hớn Quản) luôn tận tâm với công việc được nhiều người biết đến. Bà Mương hiện là đảng viên, Chi hội trưởng Chi hội Phụ nữ ấp Bù Dinh. Bà thường xuyên nhắc nhở nhân dân chấp hành tốt các quy định của Nhà nước, vận động nhân dân và đồng bào dân tộc thiểu số giữ ổn định an ninh trật tự… Đặc biệt, bà thường xuyên tuyên truyền cho đồng bào chấp hành tốt pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo.


Bà Mương chia sẻ, ở ấp Bù Dinh, người đồng bào dân tộc thiểu số S'tiêng chiếm 85%, trình độ nhận thức của người dân nơi đây còn hạn chế. Vì vậy, công tác tuyên truyền, vận động của người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn. Bà đã cùng Ban ấp đi từng ngõ, gõ từng nhà vận động bà con cho con em đến tuổi đi học, tích cực chăm lo sản xuất, ổn định đời sống.


Theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, trong những năm 2020 - 2022, trước tình hình COVID-19 diễn biến phức tạp, bà Mương chủ động đi đầu, phối hợp hướng dẫn phụ nữ trong ấp và người dân chấp hành nghiêm chỉ đạo của các cấp trong việc ứng phó với mọi tình huống diễn biến của dịch bệnh; tích cực tham gia các hoạt động phòng, chống dịch; vận động các gia đình có điều kiện; các nhà hảo tâm đóng góp ủng hộ đồng bào khó khăn, người dân trong các khu vực bị phong tỏa...


Để truyền dạy cho con cháu, bà đã thành lập và duy trì được một đội múa cồng chiêng với trên 30 người; đồng thời trực tiếp truyền dạy, hướng dẫn về ý nghĩa, cách thức sử dụng, di chuyển khi đánh cồng chiêng. Là người có uy tín, bà Mương đã tuyên truyền, vận động chị em về các biện pháp kế hoạch hóa gia đình; nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sống; tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước như: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng Nông thôn mới, Đô thị văn minh” và “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”...


Ông Khằm Thanh Sơn (người dân tộc Nùng ở thôn 10, xã Đắk Ơ, huyện Bù Gia Mập) không chỉ tuyên truyền, vận động bà con chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước mà còn là nhân tố tích cực trong việc tuyên truyền, vận động đồng bào thiểu số không bán điều non, cầm cố, sang nhượng đất.


Nhiều năm qua, sang nhượng, cầm cố đất, bán điều non là tình trạng nhức nhối của địa phương trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hiện nay, dù điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn nhưng cuộc sống của phần lớn hộ dân đã khởi sắc; tình trạng cầm cố, sang nhượng đất đã giảm hẳn. Ông Khằm Thanh Sơn cho biết, ở đây chủ yếu là đồng bào S’tiêng. Đời sống của bà con còn nhiều khó khăn. Sau 4 năm là người uy tín, ông đã tuyên truyền, vận động bà con không cầm cố đất, không bán đất. Đến nay, trên địa bàn, không thấy tình trạng người dân bán đất hay cầm cố đất.


Gia đình anh Điểu Xen là một trong nhiều hộ đã thay đổi cách nghĩ, cách làm khi được người có uy tín là ông Khằm Thanh Sơn thường xuyên nhắc nhở. Theo anh Xen,12 năm sinh sống ở đây, cuộc sống của gia đình chưa thay đổi nhiều do đông con, ít đất sản xuất. Nhờ ông quan tâm, tuyên truyền thường xuyên, gia đình anh tích cực lao động, không cầm cố, sang nhượng đất.


Trưởng Phòng Dân tộc - Tôn giáo huyện Bù Gia Mập Điểu Kiêng cho biết, người có uy tín Khằm Thanh Sơn nói riêng và người có uy tín trên địa bàn huyện nói chung luôn thể hiện tốt vai trò, trách nhiệm trong việc vận động, tuyên truyền cho đồng bào dân tộc thiểu số. Cùng chính quyền xã, những người có uy tín đã tuyên truyền, vận động bà con chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Việc triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội được người có uy tín tham gia tích cực.


Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước Trần Tuyết Minh, tỉnh đã triển khai đồng bộ và hiệu quả các chính sách cho người có uy tín cũng như già làng tiêu biểu. Bên cạnh chính sách của Trung ương, địa phương còn có chính sách đặc thù cho đồng bào dân tộc thiểu số. Trên cơ sở các chính sách đó, trong năm 2022, một số công việc cụ thể đã được Ban Dân tộc tỉnh và UBND cấp huyện triển khai hiệu quả như: cung cấp thông tin, tập huấn, tổ chức các cuộc tham quan và học tập kinh nghiệm...


Toàn tỉnh hiện có 364 người có uy tín và 94 già làng tiêu biểu. Thực tiễn đã chứng minh, đội ngũ người có uy tín không chỉ làm tốt công tác tuyên truyền, vận động bà con, cộng đồng dân cư thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước mà còn là những tấm gương sáng trong phát triển sản xuất, làm kinh tế giỏi, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số./.


Thanh Loan

PHẢN ĐỐI TRUNG QUỐC LẮP ĐẶT PHAO ĐÈN BÁO HIỆU TẠI TRƯỜNG SA



Bộ Giao thông Vận tải Trung Quốc tiến hành lắp đặt 3 phao đèn báo hiệu tại một số thực thể thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, vi phạm chủ quyền của Việt Nam.


Ngày 25-5, trả lời câu hỏi phóng viên đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam trước việc Trung tâm Bảo đảm an toàn hàng hải, Bộ Giao thông Vận tải Trung Quốc tiến hành lắp đặt 3 phao đèn báo hiệu tại một số thực thể thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng nhấn mạnh Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Trường Sa cũng như quần đảo Hoàng Sa phù hợp với luật pháp quốc tế.


Phó Phát ngôn cho biết việc lắp đặt phao đèn báo hiệu tại các thực thể ở quần đảo Trường Sa mà không được sự đồng ý của Việt Nam là vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này, vì vậy không có giá trị pháp lý.


"Việt Nam yêu cầu các bên liên quan không có hành động làm phức tạp tình hình, tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, tôn trọng luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biến năm 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biến Đông (DOC), giữ gìn môi trường hòa bình, ốn định và hợp tác ở Biển Đông" - bà Phạm Thu Hằng nhấn mạnh.


Nguyên Lan

THÊM CÔNG CỤ KIỂM SOÁT CÁN BỘ



Đạo đức công vụ, văn hóa công vụ, vấn đề đã, đang được nhắc đến nhiều trong thời gian qua và đang tiếp tục nhận được sự chú ý khi Bộ Nội vụ xây dựng Dự thảo Nghị định ban hành Bộ quy tắc Đạo đức công vụ.


Trong đó có nhiều quy định cụ thể về giao tiếp, ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức với tổ chức và công dân được kỳ vọng sẽ xóa bỏ được những “hạn sạn” khiến người dân bức xúc, phiền lòng.


Thực tế, hiện đã có rất nhiều quy định pháp luật nhằm chuẩn hóa và nâng cao đạo đức công vụ của cán bộ. Nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương đã ban hành quy tắc, quy định về văn hóa ứng xử nơi công sở, quy định về chuẩn mực đạo đức khi giao tiếp với Nhân dân. Ngày càng nhiều mô hình “Chính quyền, công sở thân thiện và trách nhiệm”, “Nụ cười công sở”… được triển khai và lan tỏa đã nâng cao hơn sự hài lòng của người dân khi đến cơ quan công quyền.


Tuy vậy, dưới những câu khẩu hiệu như “cán bộ là công bộc của dân”, “cán bộ hết lòng vì dân, sống theo hiến pháp và pháp luật”… ở chỗ này, chỗ kia vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, hạch sách, thậm chí lấy tiêu chí “đúng quy trình” để gây khó, kéo dài thời gian giải quyết công việc…


Rồi "tham nhũng vặt" cũng chưa dứt và có những biến tướng tinh vi về hình thức, ảnh hưởng đến hình ảnh những người thực thi công vụ, gây bức xúc lớn cho người dân, DN… Chính những việc này đã ảnh hưởng đến môi trường đầu tư kinh doanh, làm cho các hoạt động của xã hội bị chậm lại, thậm chí đổ vỡ, xói mòn lòng tin của người dân với đội ngũ cán bộ.


Nhiều nguyên nhân được chỉ ra, trong đó một trong các nguyên nhân được xác định là nội dung đạo đức công vụ được quy định trong nhiều văn bản, khó thực hiện; cán bộ vi phạm chưa bị xử lý nghiêm. Vì vậy, xây dựng bộ quy tắc ứng xử theo tiêu chuẩn liêm chính ở cả cơ quan công quyền, DN, tổ chức xã hội nghề nghiệp được kỳ vọng sẽ hình thành chuẩn mực cho cán bộ, công chức, đảm bảo sự văn minh, chuyên nghiệp trong công vụ.


Dự thảo về Bộ quy tắc Đạo đức công vụ đưa ra nhiều quy định đáng chú ý như cán bộ, công chức giao tiếp với công dân phải chuẩn mực, rõ ràng; không hạch sách, nhũng nhiễu, gây căng thẳng, bức xúc, kéo dài thời gian xử lý công việc; lắng nghe, tận tình giải thích, hướng dẫn rõ ràng, cụ thể cho người dân về quy trình, thủ tục; cán bộ, công chức chỉ được tiếp công dân, DN tại trụ sở cơ quan, không được hẹn gặp ngoài giờ làm việc hoặc tại nhà riêng. Bộ Nội vụ mong muốn cán bộ, công chức phải liêm khiết, chính trực; dám nghĩ, dám nói, dám làm…


Sức mạnh của đạo đức là niềm tin cá nhân, là nền nếp văn hóa, là sức mạnh dư luận xã hội. Vì vậy, việc biến nhận thức về đạo đức công vụ thành hành vi đạo đức khi thi hành công vụ của người cán bộ, công chức là việc làm hết sức cần thiết.


Bộ Quy tắc Đạo đức công vụ chính là biện pháp hành chính để người dân sẽ có thêm một kênh giám sát quá trình thực thi chức trách, nhiệm vụ, thực hành đạo đức công vụ. Do đó, quan trọng hơn là cần cả những giải pháp mạnh để đưa được Bộ quy tắc vào thực thi, đặc biệt với những quy định không dễ kiểm tra như có hẹn gặp riêng để giải quyết việc công không...


Đồng thời rõ chế tài để xử lý nghiêm minh, minh bạch, công khai với những vi phạm. Để từ đó, mỗi cán bộ, công chức phải tự soi, tự sửa hành vi của mình và từng cơ quan cũng cần đánh giá thực chất về việc thực hiện đúng các chuẩn mực đạo đức này. Khi đó những quy tắc được ban hành mới phát huy hiệu quả, trở thành công cụ để kiểm soát cán bộ.


Thảo Minh

NÉT ĐẶC SẮC TRONG "NGOẠI GIAO CÂY TRE CỦA VIỆT NAM"



Ngoại giao cây tre là một sách lược hết sức mềm dẻo đan xen cứng rắn trên lập trường ngoại giao của Đảng Cộng sản Việt Nam


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khái quát: “Chúng ta đã xây dựng nên trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh. Hình tượng đẹp của cây tre Việt Nam, lũy tre làng Việt Nam đã tồn tại hơn 1.000 năm Bắc Thuộc "mất nước nhưng không mất làng", vẫn kiên cường gắn bó với con người, làng quê để giữ nước, hình thành nên truyền thống đặc sắc dân tộc và đã tạo nên bản sắc của nền ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.


Nội hàm của trường phái “Ngoại giao cây tre Việt Nam" mà Tổng Bí thư nhấn mạnh đó là:


Mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt.


Linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân.


Đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. 


Biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái, “tuỳ cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”.


"Vững gốc, chắc cành, uyển chuyển, mềm dẻo nhưng rất kiên cường, không có cơn gió nào quật ngã được”. 


Điều này nói lên nền ngoại giao thấm đượm tâm hồn cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam: mềm mại, khôn khéo nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định can trường trước mọi thử thách khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do hạnh phúc, phồn vinh của Nhân dân.


Trong một thế giới đầy mâu thuẫn đan xen nhiều lợi ích giữa các cường quốc, nếu ai tường tận theo dõi các nhà lãnh đạo Việt Nam gặp gỡ, đón tiếp các nguyên thủ, lãnh đạo quốc gia nước ngoài chúng ta sẽ thấy rõ sự sâu sắc trong phong cách "ngoại giao cây tre của Việt Nam". Đó là, vì lợi ích quốc gia chúng ta cùng hợp tác, cùng phát triển; không làm phương hại đến lợi ích quốc gia khác và không theo nước này để chống lại nước khác và tuyệt đối không bao giờ làm tổn hại đến lợi ích quốc gia mình.


Rất đặc sắc và cũng rất sâu sắc, mang tính nguyên lý của dân tộc Việt Nam.


Bình An

Thứ Tư, 24 tháng 5, 2023

NHẬN DIỆN MỘT SỐ THỦ ĐOẠN XUYÊN TẠC, BÓP MÉO LỊCH SỬ ĐẢNG

Lịch sử càng lùi xa, các chứng nhân lịch sử dần không còn; với ngày càng nhiều những sự kiện quan trọng xảy ra trong thực tiễn, ký ức, nhận thức, tư tưởng con người có thể bị phai mờ về một số nội dung, sự kiện lịch sử. Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch, phản động thường ra sức cắt xén, thêm bớt, đánh tráo khái niệm, xét lại lịch sử, “đổi trắng thay đen”, bôi nhọ lịch sử Đảng, lịch sử cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.


Trong bối cảnh công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, cùng với những thuận lợi cơ bản, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đã đạt được, đất nước ta cũng phải đối diện với những khó khăn và trở lực không nhỏ. Các thế lực thù địch trong nước và ngoài nước không ngừng thực hiện âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” hòng gây bạo loạn, lật đổ, chống phá cách mạng Việt Nam. Một trong những thủ đoạn thâm độc, tinh vi của chúng là tấn công vào nền tảng lịch sử của Đảng, hòng xuyên tạc lịch sử cách mạng Việt Nam.


Thông qua các bài viết, nhân danh cái gọi là các “công trình khoa học”, các diễn đàn, hội thảo,... viện lý do nghiên cứu làm rõ lịch sử, các thế lực thù địch, phản động ra sức tấn công vào lịch sử Đảng. Chúng xoáy vào một số sự kiện lịch sử, một số thời đoạn của lịch sử, với những đánh giá sai lệch, hoặc thổi phồng sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, bịa đặt, bôi nhọ các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử,... hòng phủ nhận những thành quả cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.


Các thế lực thù địch, phản động ra rả mấy luận điệu mang tính chủ quan, khiên cưỡng, như Đảng Cộng sản Việt Nam dựa trên nền tảng tư tưởng “du nhập”, “vay mượn” từ bên ngoài; Việt Nam đã “độc lập từ tháng 3-1945”, những người cộng sản Việt Nam và Việt Minh “cướp công” trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945; thổi phồng những sai lầm của Đảng trong cải cách ruộng đất; đánh giá sai lệch về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968; phê phán Việt Nam đưa quân sang “xâm lược Cam-pu-chia” năm 1979 (!?),...


Bám vào sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, các thế lực thù địch, phản động rêu rao rằng: chủ nghĩa Mác - Lê-nin là sai lầm từ trong bản chất chứ không phải do nhận thức và vận dụng sai(?!); chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải là sản phẩm của thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam là “một sai lầm của lịch sử”, “đã kìm hãm sự phát triển của đất nước”(!?),...


Bên cạnh đó, cũng xuất hiện một số cách nhìn, nghiên cứu sai trái, thiển cận, cả những dấu hiệu của căn bệnh lười học tập, nghiên cứu lý luận, điển hình như biện luận rằng dân tộc Việt Nam không cần thiết tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để giành nền độc lập trọn vẹn, tiến tới thống nhất đất nước, mà Việt Nam vẫn có thể thực hiện được sự thống nhất đất nước theo mô hình của Đức ở châu Âu...; có hiện tượng đáng ngại là xuất hiện những ý kiến “đánh giá lại lịch sử”; ngại viết, ngại nói về lịch sử Đảng, cho rằng viết về Đảng là “không khách quan”, “không khoa học”; đòi xem xét, đánh giá lại những vấn đề lịch sử, thậm chí còn hàm hồ cho rằng những nhân vật phản diện cũng là những “người yêu nước”(!?)... Những luận điệu xuyên tạc, những nhận định lệch lạc, sai lầm, ấu trĩ về lịch sử Đảng, lịch sử đấu tranh cách mạng, lịch sử dân tộc diễn ra liên tục, lặp đi lặp lại, kéo dài với nhiều hình thức, nhiều biểu hiện, vừa ráo riết, vừa âm thầm; đáng quan ngại nhất là được che đậy dưới chiêu bài “khách quan”, “khoa học”.


Hiện nay, tận dụng lợi thế của các phương tiện truyền thông xã hội có hiệu ứng rất lớn, rất nhanh; sự kiểm duyệt thông tin khó khăn; có thể thực hiện từ xa, ít bị định chế bởi các biên giới cứng, các thế lực phản động, thù địch, phần tử định kiến triệt để lợi dụng kênh thông tin này để phát tán, tuyên truyền sai sự thật nhiều vấn đề lịch sử hòng gây hoang mang, dao động, hoài nghi, ngả nghiêng trong nhận thức, tư tưởng; kích động sự hận thù giữa nhóm người này với nhóm người kia, phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Hơn ai hết, các thế lực thù địch, phản động thừa biết rằng, xuyên tạc, bóp méo, bôi đen lịch sử Đảng chính là đánh phá trực tiếp vào cơ sở thực tiễn, cơ sở chính trị, vào nền tảng lịch sử của Đảng. Lịch sử thuộc về những gì đã qua, ngày càng ít người biết đến, nên việc bịa đặt, dàn dựng, đưa ra các “thuyết âm mưu”,... dễ dàng hơn rất nhiều so với tấn công vào các vấn đề hiện tại - những vấn đề mà tự kết quả, hiệu quả, các con số thống kê có thể lập tức phản bác những ý đồ, âm mưu đen tối. Do đó, các thế lực thù địch, phản động coi lịch sử là một địa hạt, mặt trận quan trọng để tấn công trực tiếp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài học từ sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu cho thấy, việc nhận thức không đúng về lịch sử, hoài nghi về lịch sử, xem xét lại lịch sử có thể gây ra những hậu quả khôn lường.


Nhận thức sâu sắc những vấn đề đó, trong giai đoạn hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam kịp thời đề ra đường lối, chủ trương và có sự chỉ đạo hành động đúng đắn, quyết liệt, là “kim chỉ nam” cho công tác nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền lịch sử Đảng. Quan điểm của Đảng khẳng định rõ, việc củng cố, tăng cường nhận thức về lịch sử Đảng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân luôn là đòi hỏi thường xuyên, cấp bách, tất yếu trong công tác tư tưởng của Đảng; đồng thời, có vị trí rất quan trọng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.


Chỉ thị số 15-CT/TW, ngày 28-8-2002 của Ban Bí thư, “Về tăng cường và nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”, khẳng định: Nghiên cứu sâu sắc lịch sử Đảng là nhiệm vụ rất quan trọng nhằm làm rõ các chặng đường lịch sử và hoạt động đấu tranh của Đảng, tổng kết thực tiễn lịch sử dân tộc. Nghiên cứu lịch sử Đảng không chỉ nêu bật những thắng lợi, những thành tựu của cách mạng, mà còn phải chỉ ra, không tránh né, cả những sai lầm, khuyết điểm, làm sáng tỏ những bài học, những vấn đề lý luận của cách mạng Việt Nam, giáo dục truyền thống cách mạng của Đảng, bồi dưỡng tình cảm yêu nước, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, các cấp ủy từ Trung ương đến địa phương và toàn thể đảng viên nâng cao nhận thức, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng. Nghiên cứu, tổng kết lịch sử Đảng làm cho mọi cán bộ, đảng viên và toàn dân hiểu về Đảng, là giáo dục về Đảng; là tổng kết thực tiễn lịch sử, làm rõ lý luận về con đường cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, làm rõ bài học và lý luận về xây dựng Đảng là góp phần quan trọng vào công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng, lịch sử các đảng bộ địa phương và một số ngành và đoàn thể ở Trung ương do Bộ Chính trị, Ban Bí thư, ban thường vụ các cấp ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo về mọi mặt.


Trước tình hình mới, nhất là trong giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng và bối cảnh cuộc đấu tranh phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc lịch sử ngày càng quyết liệt, công tác nghiên cứu, tuyên truyền lịch sử Đảng đứng trước những yêu cầu, thử thách mới. Ngày 18-1-2018, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW, “Về tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng” với những yêu cầu mạnh mẽ, đặc biệt nhấn mạnh phải đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức, trước hết là của người đứng đầu, về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng; chủ động đấu tranh phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc lịch sử Đảng.



HNen.Koln