Tìm kiếm

Thứ Tư, 31 tháng 8, 2022

TRIỂN KHAI THI HÀNH LUẬT CẢNH SÁT CƠ ĐỘNG  

 


Phó thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh vừa ký Quyết định số 1026/QĐ-TTg ngày 31-8-2022 ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Cảnh sát cơ động.


Luật Cảnh sát cơ động được Quốc hội khóa XV thông qua ngày 14-6-2022, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2023.


Bộ Công an được giao chủ trì biên soạn, in, cấp phát tài liệu, tuyên truyền, phổ biến luật cho cán bộ, chiến sĩ trong Công an nhân dân; xây dựng và triển khai kế hoạch tập huấn chuyên sâu về luật và các văn bản quy định chi tiết thi hành luật cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt, báo cáo viên pháp luật công an các cấp, các học viện, nhà trường trong Công an nhân dân, trọng tâm là lực lượng Cảnh sát cơ động.


Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Bộ Công an, các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan thông tin, báo chí thực hiện tuyên truyền, phổ biến Luật. Các bộ, ngành có liên quan, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền, phổ biến luật trong cơ quan, đơn vị, địa phương.


Đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên phối hợp với Bộ Công an, các cơ quan, đơn vị có liên quan tổ chức tuyên truyền, phổ biến luật cho các hội viên và các tầng lớp nhân dân.


Công tác tuyên truyền, phổ biến luật được thực hiện từ quý IV năm 2022 và các năm tiếp theo.


Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan có liên quan xây dựng các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật theo danh mục tại Quyết định số 917/QĐ-TTg ngày 1-8-2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các Luật, Nghị quyết được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 3. Thời gian trình trước ngày 15-11-2022.


Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình xây dựng kế hoạch triển khai thi hành luật; tổ chức tuyên truyền, phổ biến luật; tổ chức kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để đề xuất sửa đổi bổ sung, thay thế, bãi bỏ, ban hành mới cho phù hợp với luật, gửi kết quả về Bộ Công an để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Thời gian hoàn thành nhiệm vụ này tháng 10 năm 2022.


Các cơ quan được phân công chủ trì có trách nhiệm hoàn thành nội dung công việc được giao, bảo đảm tiến độ, chất lượng, hiệu quả; các cơ quan phối hợp có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với cơ quan chủ trì thực hiện các nội dung nhiệm vụ cụ thể được phân công. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh, báo cáo kết quả triển khai thực hiện Kế hoạch này về Bộ Công an để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.


Bộ Công an chịu trách nhiệm hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện và báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình, kết quả thực hiện kế hoạch này.


MINH HÀ

TẾT ĐỘC LẬP NHỚ LỜI BÁC DẠY



Hằng năm, đến dịp Quốc khánh, dù ở chiến khu Việt Bắc hay tại Thủ đô Hà Nội sau ngày miền Bắc giải phóng, Bác Hồ thường dành thời gian viết thư thân gửi đồng bào, chiến sĩ cả nước hoặc có những bài viết, bài nói huấn thị, giáo dục, nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền độc lập, tự do của Tổ quốc, tinh thần, ý chí xây dựng đất nước, kháng chiến chống xâm lược.


Đặc biệt, không chỉ biểu dương thành tích, chiến công đã dành được, Bác quan tâm căn dặn việc giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, nhân cách cán bộ, đảng viên, chống những thói hư, tật xấu, chống quan liêu, cửa quyền. Trong đó, giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, thói hư, tật xấu để xây dựng Đảng thực sự vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân là một trong những phương cách góp phần bảo vệ và phát huy giá trị nền độc lập, tự do của Tổ quốc. 


Trong điều kiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược còn gay go, ác liệt, tại chiến khu Việt Bắc, Bác đã viết bài “Phải tẩy sạch bệnh quan liêu”, đăng trên Báo Sự thật ra ngày 2/9/1950. Mở đầu bài báo, Bác viết: “Nhiệm vụ của chính quyền ta và đoàn thể ta là phụng sự nhân dân. Nghĩa là làm đầy tớ cho dân. Đã phụng sự nhân dân thì phải phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc gì đó có lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân thì phải hết sức tránh”.


Bác Hồ chỉ rõ, muốn làm được như vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn luôn gần gũi nhân dân, hiểu biết nhân dân, học hỏi nhân dân, lãnh đạo nhân dân bằng cách tuyên truyền, giải thích, cổ động, giáo dục, tổ chức nhân dân, dựa vào nhân dân để thực hiện nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Những điều ấy phải đi song song với nhau. Không gần gũi dân thì không hiểu biết dân. Không hiểu biết dân thì không học hỏi được những kinh nghiệm và sáng kiến của dân. Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Bác nhấn mạnh: “Có biết làm học trò dân mới làm được thầy học dân. Nhiều cán bộ chưa hiểu và không thực hành như thế, vì họ mắc phải bệnh quan liêu quá nặng”.


Trong bài báo, Bác Hồ vạch rõ nguyên nhân của bệnh quan liêu là xa dân, không hiểu biết ý kiến, nguyện vọng của dân, không học hỏi dân và sợ dân chúng phê bình. Bác viết: “Các cán bộ ấy, người thì cả đời chỉ loanh quanh trong trụ sở. Có người thì bao giờ “sấm ra đá kêu” mới gặp dân chúng một lần. Khi gặp dân chúng thì đút tay vào túi quần mà “huấn thoại”, nói hàng giờ, nói bao la thiên địa. Song, những việc thiết thực cần kíp của địa phương, những điều dân chúng cần biết thì không nói đến”.


Nhân dịp Quốc khánh năm 1951, Bác viết tiếp bài “Cần tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh”, bài đăng trên Báo Nhân Dân số 23 với bút danh CB. Bác viết: “Ai cũng biết bệnh quan liêu mệnh lệnh là nguy hiểm. Nhưng trong công tác thực tế, nhiều cán bộ ta còn mắc bệnh ấy. Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng” nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ”.


Bác chỉ rõ nguyên nhân của bệnh quan liêu là xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân, không tin nhân dân, không hiểu biết nhân dân… Trong đó, xa nhân dân nên không hiểu tâm lý, nguyện vọng của nhân dân, còn sợ nhân dân thì khi có sai lầm, khuyết điểm thì sợ nhân dân phê bình, sợ mất thể diện, sợ phải sửa chữa. 


Hai năm liền trong Ngày Quốc khánh, Bác Hồ đều nhấn mạnh việc phòng, chống bệnh quan liêu. Điều đó cho thấy quan liêu là một thứ bệnh nguy hiểm, có hại lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Những bài báo này được Bác viết tại chiến khu Việt Bắc, trong điều kiện cuộc kháng chiến chống Pháp còn gay go, cam khổ, nghĩa là thời điểm đó người cán bộ, đảng viên không có môi trường thuận lợi để bộc lộ các thói hư, tật xấu quan liêu, hách dịch, xa dân như trong điều kiện hòa bình.


Tuy nhiên, Bác đã nhìn nhận mầm mống nảy sinh trong tư duy, quan điểm của cán bộ, đảng viên để kịp thời huấn thị, chỉnh sửa, điều đó cho thấy sự quan tâm sâu sắc của Bác, lo lắng, rèn giũa ý thức, đạo đức con người là cả quá trình bền bỉ, liên tục, không kể điều kiện chiến tranh hay hòa bình. Chỉ ba ngày sau Quốc khánh năm 1954, tại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với cán bộ, nhân viên các cơ quan Trung ương, các đơn vị bộ đội, công an và thanh niên xung phong chuẩn bị về tiếp quản Thủ đô Hà Nội.


Sau khi giải đáp một số thắc mắc về lương bổng, công việc của người sắp vào thành phố, Bác đã nhắc nhở phải luôn luôn giữ gìn đạo đức và nhân cách: “Có thể nhiều người khi kháng chiến thì rất anh dũng, trước bom đạn địch không chịu khuất phục, nhưng khi về đến thành thị lại bị tiền bạc, gái đẹp quyến rũ, mất lập trường, sa vào tội lỗi. Cho nên bom đạn của địch không nguy hiểm bằng “đạn bọc đường”, vì nó làm hại mình mà mình không trông thấy”.


Trong chiến tranh, bệnh quan liêu, các thói hư tật xấu của cán bộ, đảng viên đã “nảy mầm” thì ngày nay, trong điều kiện kinh tế thị trường, căn bệnh ấy càng có đất dung dưỡng, phát triển. Bởi vậy, trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), Đảng ta chỉ rõ, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc… Từ đó, Đảng ta xác định rõ một trong các nhiệm vụ quan trọng là cán bộ, đảng viên phải nghiêm túc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, nêu gương bằng hành động thực tế…


Tết Độc lập, ngẫm lại những lời huấn thị của Bác năm xưa, chúng ta càng hiểu thêm những giá trị, tư tưởng của Người trong rèn giũa đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Làm theo lời Bác dạy, tự mỗi cán bộ, đảng viên chống bệnh quan liêu, hách dịch, bệnh xa dân, có nghĩa mỗi chúng ta đã góp phần mình vào việc bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc và phát huy giá trị, ý nghĩa cao cả của nền độc lập ấy.


THANH PHONG

Thứ Ba, 30 tháng 8, 2022

CÔNG BỐ 9 SỐ ĐIỆN THOẠI ĐƯỜNG DÂY NÓNG VỀ GIAO THÔNG DỊP 2/9



Theo đó, để phản ánh các vi phạm trong lĩnh vực giao thông vận tải đường bộ: chở quá số người quy định, tăng giá vé quá quy định, nhồi nhét và chèn ép hành khách, chạy sai luồng tuyến, dừng đón trả khách sai quy định, ùn tắc giao thông và các vi phạm khác (uống rượu bia khi lái xe, sử dụng điện thoại, sử dụng m.a t.ú.y, không đội mũ bảo hiểm, vi phạm tốc độ, vận chuyển hàng cấm, nguy cơ cháy, nổ), tai nạn giao thông… liên hệ số di động 0995.67.67.67 hoặc số cố định 069.2342608 (Cục Cảnh sát giao thông).


Phản ánh các thông tin về tình trạng quá tải tại nhà ga, bến xe; công tác bán vé, hành vi tăng giá vé quá quy định, chạy sai luồng tuyến, liên hệ số điện thoại: 0876669855 (Vụ Vận tải - Tổng cục Đường bộ Việt Nam). Các bất cập về tổ chức giao thông, về đường sá, đèn tín hiệu, chở quá tải trọng, ùn tắc giao thông trên cao tốc và các quốc lộ, liên hệ số điện thoại: 0916.608.085 (Vụ An toàn giao thông - Tổng cục Đường bộ Việt Nam).


Để phản ánh và được giải đáp thông tin về đường sắt, liên hệ số điện thoại: 0865367565 (Cục Đường sắt Việt Nam). Để phản ánh và được giải đáp thông tin về hàng không, liên hệ số điện thoại: 0916.562.119 (Cục Hàng không Việt Nam). Để phản ánh và được giải đáp thông tin về đường thủy, liên hệ số điện thoại: 0942.107.474 (Cục Đường thủy nội địa). Để phản ánh và được giải đáp thông tin về hàng hải, liên hệ số điện thoại: 0914.689.576 (Cục Hàng hải Việt Nam). Phản ánh chung về tình hình trật tự an toàn giao thông, tai nạn giao thông, liên hệ số điện thoại: 081.9115911 (Văn phòng Ủy ban ATGT Quốc gia).


THANH THÚY

CẢNH GIÁC ĐỂ KHÔNG BỊ LÔI KÉO VÀO CÁC TỔ CHỨC BẤT HỢP PHÁP



Thời gian gần đây xuất hiện một số hội, nhóm hoạt động dưới danh nghĩa “xã hội dân sự”, kêu gọi bảo vệ người lao động, bảo vệ môi trường nhưng thực chất là lôi kéo người dân tham gia vào các hoạt động chống phá chế độ. Dù thủ đoạn này đã bị lực lượng chức năng vạch trần và cảnh báo tới cộng đồng nhưng vẫn còn một số cá nhân nhẹ dạ, thiếu hiểu biết nên vô tình trở thành công cụ, tay sai cho các đối tượng phản động, cực đoan.


Phát triển kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội là một chủ trương quan trọng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Trong đó, nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu là đẩy mạnh giảm nghèo, nâng cao mức sống, thu nhập của nhân dân, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, đồng bào dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.


Trong hơn một thập kỷ vừa qua, công cuộc xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam đã đạt những thành tựu đáng kể. Ngày 28/4/2022, Báo cáo “Từ chặng đường cuối đến chặng đường kế tiếp Đánh giá thực trạng nghèo của Việt Nam năm 2022” của Ngân hàng Thế giới (World Bank) đã đưa ra nhận xét: “giai đoạn 2010-2020 là thập kỷ chứng kiến mức tăng trưởng cao, thành tựu lớn về giảm nghèo, các hộ gia đình có xu hướng chuyển dịch sang trình độ học vấn cao hơn và người dân chuyển sang công việc phi nông nghiệp nhiều hơn”. Báo cáo cũng đánh giá mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045 là “đầy tham vọng, nhưng phù hợp với một quốc gia có thành tích được minh chứng trong tăng trưởng bao trùm”.


Trong giai đoạn 2020-2021, tác động của đại dịch Covid-19 đã khiến tốc độ cải thiện thu nhập và chất lượng sống của người Việt Nam có phần bị chững lại. Nhưng với sự quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, nền kinh tế Việt Nam đang trên đà hồi phục nhanh. Những chính sách hỗ trợ người lao động từng bước phát huy hiệu quả rõ rệt.


Cam kết giải quyết nhà ở, tạo công ăn, việc làm, cải thiện y tế, nâng cao chất lượng giáo dục cho người lao động đã được triển khai rộng rãi, và đạt được những kết quả tích cực. Tính đến nay, cả nước đã hoàn thành 275 dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân; đang tiếp tục triển khai 339 dự án, quy mô xây dựng khoảng 372.000 căn, tổng diện tích khoảng 18,6 triệu m2. Chỉ riêng sáu tháng đầu năm 2022, cả nước đã hoàn thành 13 dự án nhà ở xã hội, quy mô 6.000 căn dành cho người thu nhập thấp ở đô thị và công nhân khu công nghiệp.


Từ ngày 1/7/2022, Nghị định số 38/2022/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 12/6/2022 quy định mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động sẽ chính thức có hiệu lực. Qua đó, người lao động có thể được hưởng thêm nhiều lợi ích như bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp,... Ngay tại các vùng kinh tế còn nhiều khó khăn như miền núi phía bắc và Tây Nguyên, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo là người dân tộc thiểu số đã giảm đáng kể.


Tuy nhiên một số hội, nhóm thiếu thiện chí, cực đoan, phản động vẫn cố tình xuyên tạc, phủ nhận thành tựu của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động. Dưới bình phong tổ chức “xã hội dân sự”, xuất hiện những hội, nhóm tự xưng là đại diện “vì công lý”; “bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”; “đào tạo, thúc đẩy và liên kết các phong trào dựa vào người dân để mang lại thay đổi xã hội”.


Tuy nhiên đây đều là những tổ chức hoạt động bất hợp pháp tại Việt Nam vì vi phạm Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Đáng chú ý, phần lớn sáng lập viên, thành viên tích cực của những hội, nhóm này đều đang sống lưu vong ở nước ngoài, là gương mặt quen thuộc của phong trào chống cộng. Thậm chí có một số cá nhân đồng thời là lãnh đạo của vài ba hội, nhóm, từ đây dấy lên nghi vấn họ đang tạo ra các tổ chức chân rết để phô trương thanh thế.


Vốn là các hội, nhóm không chính danh, được lập ra với toan tính không trong sáng nên những tổ chức này thường xuyên chỉ trích lẫn nhau. Chẳng hạn, khi nói về tình hình hoạt động của một số “tổ chức xã hội dân sự” hiện nay, “nhóm bạn công nhân” đã ra sức chê bai: “Nghiệp đoàn độc lập Việt Nam không ghi cương lĩnh của nghiệp đoàn, không nêu nội quy, không nêu rõ sách lược hoạt động, không đề cập tới các cá nhân trong ban điều hành”; “tổ chức lao động Việt chỉ đăng những thông tin về tai nạn giao thông rùng rợn hay tin mang tính chất giật gân rẻ tiền”, “Công đoàn độc lập Việt Nam không để lại dấu ấn gì đặc biệt cho giới lao động”,…


Có tổ chức tự phong cho mình sứ mệnh “thay đổi xã hội và môi trường sống tại Việt Nam” nhưng hoạt động đáng chú ý nhất trong mùa dịch lại là kết hợp với đài truyền hình chống cộng ở hải ngoại để “gây quỹ bảo vệ các chiến sĩ ở tuyến đầu” tại Mỹ. Trong khi đó hoạt động gây quỹ của đài này từ lâu đã bị cộng đồng người Việt ở nước ngoài nghi ngờ về động cơ cùng tính minh bạch. Chương trình “gây quỹ bảo vệ các chiến sĩ tuyến đầu” cũng không ngoại lệ khi nhiều người chứng kiến sự việc đã bày tỏ thái độ bất bình, phẫn nộ.


Mang danh là “tổ chức bảo vệ quyền lợi người lao động và môi trường sống” nhưng hoạt động của các hội, nhóm này hầu như chỉ xoay quanh việc đăng tải, chia sẻ những thông tin sai sự thật, tiêu cực về tình hình đất nước và con người Việt Nam. Thông qua mạng xã hội, ứng dụng tin nhắn, tài khoản nặc danh, họ lôi kéo, xúi giục một bộ phận người lao động tham gia khiếu kiện, ra yêu sách vô lý, gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ. Với chiêu trò này, khi cơ quan chức năng khởi tố vụ án, tiến hành công tác điều tra, những kẻ cầm đầu dễ dàng chối bỏ trách nhiệm với nhóm đối tượng bị họ xui khiến.


Đáng chú ý thời gian qua, các tổ chức này ráo riết tìm kiếm một vài nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, người dân tộc thiểu số, nhất là tại khu vực miền núi phía bắc và Tây Nguyên. Qua đó, chúng tiến hành tiêm nhiễm cho những người nhẹ dạ, thiếu hiểu biết các thông tin sai sự thật, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, nhất là chính sách về đất đai và tôn giáo, khiến người dân mất lòng tin với chính quyền, từ đó kích động họ thực hiện các hành vi gây rối, biểu tình.


Mặc dù cố gắng phô trương thanh thế, các tổ chức tự xưng “xã hội dân sự”, “nghiệp đoàn độc lập” vẫn không thể lừa gạt được đại bộ phận người lao động trong xã hội. Chính vì vậy sau một thời gian hoạt động, nhiều hội, nhóm dần biến mất, “không kèn không trống”; số khác tuyên bố tự giải tán. Điều này gián tiếp thừa nhận các hội, nhóm trên gần như đã thất bại trong việc chiêu mộ vây cánh cho mình tại Việt Nam.


Thực tế, cái gọi là “tổ chức xã hội dân sự”, “nghiệp đoàn độc lập”, “công đoàn độc lập” không hề mới. Đơn cử, tháng 9/2006, Nguyễn Văn Đài (sống lưu vong tại Đức, người từng lĩnh án 15 năm tù vì hành vi Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo Điều 79 Bộ luật Hình sự năm 1999) cùng đồng bọn đã lập ra tổ chức “công đoàn độc lập Việt Nam” để thực hiện các hoạt động chống phá chính quyền.


Sở dĩ trong thời gian qua, một số cá nhân thù địch, thiếu thiện chí rục rịch lập hội, nhóm mới có chiều hướng gia tăng xuất phát từ việc chúng cố tình xuyên tạc quy định mới của Bộ luật Lao động 2019 về việc thành lập Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở (Bộ luật này cho phép tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp được thành lập và hoạt động hợp pháp sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký).


Lấy cớ người lao động có quyền bầu ra tổ chức của mình, các hội, nhóm chống phá này công khai ý đồ chia rẽ giai cấp công nhân với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Chúng cố tình phớt lờ sự thật là Tổ chức Lao động Quốc tế ILO và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã định nghĩa cụ thể về tiêu chuẩn để thành lập, gia nhập, lãnh đạo tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp như sau: phải là người lao động làm việc trong doanh nghiệp; được người lao động tại doanh nghiệp bầu; không trong thời gian bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt hoặc chưa được xóa án tích do phạm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, các tội xâm phạm sở hữu theo quy định của Bộ luật Hình sự. Bên cạnh đó, tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp phải được thành lập trong chính doanh nghiệp nơi người lao động làm việc.


Vì một tổ chức đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn như vậy mới đủ điều kiện thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên tổ chức mình trong quan hệ lao động tại doanh nghiệp, góp phần xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa, ổn định.


Đáng buồn là vẫn có hiện tượng người dân vì thiếu hiểu biết, bất mãn chế độ mà sẵn sàng trở thành công cụ chống phá đất nước của các tổ chức nguy hiểm đó. Chính vì vậy để không bị lôi kéo vào các tổ chức bất hợp pháp, có thể bị liên lụy đến bản thân và gia đình, mỗi cá nhân cần tỉnh táo nhận diện các âm mưu, thủ đoạn núp bóng “bảo vệ người lao động”, “bảo vệ môi trường” để thực hiện các mục đích đen tối./.


MINH HÀ

TRUNG TÁ KSOR H'BƠ KHẮP GIỮ CHỨC PHÓ GIÁM ĐỐC CÔNG AN TỈNH GIA LAI



Trung tá Ksor H’Bơ Khắp được Bộ trưởng Bộ Công an bổ nhiệm giữ chức vụ Phó Giám đốc Công an tỉnh Gia Lai.


Chiều 30/8, tại Hội trường Công an tỉnh, Công an tỉnh Gia Lai long trọng tổ chức Lễ công bố quyết định của Bộ trưởng Bộ Công an về công tác cán bộ.


Tại buổi lễ, thừa ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Công an, Thiếu tướng Rah Lan Lâm, Giám đốc Công an tỉnh Gia Lai đã trao quyết định của Bộ trưởng Bộ Công an.


Giám đốc Công an tỉnh Gia Lai đề nghị Trung tá Ksor H’Bơ Khắp nhanh chóng nghiên cứu, tiếp cận và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; nỗ lực, phấn đấu học tập nâng cao bản lĩnh chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, phát huy năng lực, sở trường công tác, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì nhân dân phục vụ.


Phát biểu nhận nhiệm vụ, Trung tá Ksor H’Bơ Khắp hứa sẽ không ngừng học tập, rèn luyện, cùng tập thể Ban Thường vụ Đảng ủy, lãnh đạo Công an tỉnh đoàn kết, thống nhất, quan tâm, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân; phấn đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.


Trung tá Ksor H’Bơ Khắp (SN 1982), quê quán: xã Ia Trok, huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai. Trước khi giữ chức Phó Giám đốc Công an tỉnh Gia Lai, Trung tá Ksor H’Bơ Khắp đã có 16 năm công tác tại Công an thị xã Ayun Pa. Trong đó, 3 năm làm trinh sát Đội An ninh, 2 năm giữ chức vụ Phó Đội trưởng Đội An ninh, 8 năm giữ chức vụ Phó Trưởng Công an thị xã Ayun Pa, 3 năm giữ chức vụ Trưởng Công an thị xã Ayun Pa.


THANH THẢO

Thứ Hai, 29 tháng 8, 2022

BẢO ĐẢM AN NINH MẠNG LÀ NHIỆM VỤ CẤP BÁCH



Cùng với sự bùng nổ của internet, không thể phủ nhận những lợi ích to lớn mà mạng xã hội đem lại cho con người trong việc kết nối, liên lạc, tiếp cận thông tin nhanh chóng. Tuy nhiên, không gian mạng luôn tiềm ẩn nhiều hiểm họa khó lường, thậm chí đe dọa tới an ninh quốc gia.


Do đó bảo vệ an toàn hệ thống thông tin, đấu tranh, phát hiện, ngăn chặn các hoạt động xâm phạm trên không gian mạng là yêu cầu cấp bách, hàng đầu hiện nay.


Internet xuất hiện mang lại một sự thay đổi mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, từ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, giáo dục, cho đến an ninh, chính trị của nhiều quốc gia trên thế giới. Trên không gian mạng, nhiều phát hiện mang tính đột phá được công bố tác động rất lớn đến sự phát triển của xã hội.


Ða số hoạt động diễn ra trong thế giới thực đều có sự hỗ trợ đắc lực của các thiết bị thông minh, làm thay đổi cách thức con người tiến hành công việc, tạo ra sản phẩm, học tập, giao tiếp, vui chơi, giải trí mà không bị giới hạn về không gian và thời gian; từ đây dẫn đến những thay đổi sâu sắc về chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, đồng thời tạo nên “cuộc cách mạng” về tổ chức các chuỗi sản xuất-giá trị, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, góp phần tạo nên sự thay đổi trong phát triển của các quốc gia.


Nhiều quốc gia đã dựa trên thành tựu của khoa học-công nghệ và không gian mạng để “đi tắt đón đầu”, thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhận thức về vai trò của không gian mạng cũng được nhìn nhận đúng đắn hơn, với ý nghĩa là một không gian sinh tồn mở rộng, một lãnh thổ mới với tầm quan trọng ngang bằng các vùng lãnh thổ khác như trên đất liền, trên biển.


Tuy nhiên, theo thống kê của Bộ Công an, trong 5 năm qua, đã phát hiện, đấu tranh, xử lý hơn 2.300 chuyên án, khởi tố hơn 1.100 vụ với hơn 1.000 đối tượng và xử phạt hành chính 51 vụ liên quan tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua không gian mạng. Ðáng chú ý ở Việt Nam, thanh thiếu niên, trẻ em đang chiếm tới 1/3 số người sử dụng internet. Ðây là đối tượng rất dễ tổn thương khi bị xâm phạm riêng tư và thông tin cá nhân; dễ bị tiếp xúc với các nội dung bạo lực, khiêu dâm; có nguy cơ cao bị tấn công, xâm hại tình dục, bắt nạt trực tuyến…


Nhiều nguy cơ, thách thức tiềm ẩn đe dọa an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội trên không gian mạng đã và đang diễn ra. Có thể kể đến các chiến dịch tấn công mạng quy mô lớn nhằm vào hạ tầng công nghệ thông tin trọng yếu của quốc gia, gián điệp mạng, khủng bố mạng, kêu gọi tài trợ khủng bố, tội phạm mạng, tán phát tin giả… gây ra những hậu quả khôn lường.


Nguy hiểm hơn, các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng mạng xã hội để xuyên tạc cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm phủ nhận vai trò của Ðảng cũng như chế độ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam. Chúng sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi hòng lôi kéo, kích động, dụ dỗ những phần tử bất mãn, những người nhẹ dạ cả tin, thiếu hiểu biết tập hợp thành lực lượng chống đối, biểu tình, phát tán tài liệu gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, âm mưu lật đổ chế độ.


Thực tế trên cho thấy bảo vệ an toàn an ninh mạng là yêu cầu có tính cấp bách, hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam với mục tiêu đặt ra, đó là: chú trọng nhiệm vụ xây dựng không gian mạng lành mạnh, không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân; phòng ngừa, kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng.


Việt Nam đã ban hành Luật An ninh mạng (năm 2018) để quản lý hoạt động đối với lĩnh vực đặc thù này. Ðây cũng là việc làm cần thiết mà nhiều quốc gia đang áp dụng. Cụ thể, theo số liệu thống kê của Liên hợp quốc, hiện có 138 quốc gia (trong đó có 95 nước đang phát triển) đã ban hành Luật An ninh mạng. Tuy nhiên, một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí, phản động, cực đoan đã xuyên tạc, phủ nhận Luật An ninh mạng một cách quyết liệt, với luận điệu “luật vi phạm quyền con người”, “đàn áp bất đồng chính kiến”, “bóp nghẹt quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận”... Những đối tượng này lợi dụng nhiều sự kiện chính trị, pháp lý ở Việt Nam để tranh thủ bôi nhọ, kích động người dân nhằm mục đích chống phá công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.


Có thể thấy thời gian qua ở Việt Nam công tác bảo vệ an toàn không gian mạng gặp không ít hạn chế, khó khăn do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Từ đây đòi hỏi phải có sự đổi mới mạnh mẽ về tư duy và phương thức hành động để nhiệm vụ này đạt hiệu quả cao hơn. Cụ thể cần xác định đây không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước, của các cơ quan chức năng mà còn là nghĩa vụ, trách nhiệm đối với mỗi công dân.


Mỗi tổ chức, cá nhân cần hiểu và nắm vững nội dung, ý nghĩa và giá trị của Luật An ninh mạng về trách nhiệm và quyền lợi, nghĩa vụ và những hành vi bị cấm trên không gian mạng như: tổ chức, hoạt động, cấu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc; thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế-xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng và các hành vi xâm phạm khác... Tuân thủ và thực hiện đúng pháp luật sẽ giúp mỗi tổ chức, cá nhân tự bảo vệ bản thân, gia đình, bạn bè, từ đó góp phần bảo vệ không gian mạng trong sạch, lành mạnh.


Các tổ chức, cá nhân cần trang bị kiến thức, nắm bắt các thủ đoạn tấn công mạng và cách thức xử lý; thiết lập những thói quen thường xuyên bảo vệ thông tin của cá nhân, tổ chức như sử dụng phần mềm quét virus, sao lưu dự phòng bằng ổ cứng ngoài, dịch vụ lưu trữ đám mây; nghiên cứu kỹ trước khi like và share các thông tin, bài viết, đường link, nếu có nghi ngờ phải kiểm tra nguy cơ lộ lọt thông tin cá nhân qua Trung tâm xử lý tấn công mạng Việt Nam.


Các phụ huynh cần khuyến cáo con em cảnh giác trước những nguy cơ, rủi ro trên môi trường mạng, hình thành kỹ năng tự bảo vệ bản thân và tìm kiếm sự giúp đỡ từ cha mẹ, người chăm sóc, thầy giáo, cô giáo và các cơ quan chức năng khi đối mặt nguy cơ bị đe dọa trên mạng xã hội.


Các cơ quan chức năng cần chú trọng hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn cộng đồng các quy định của Luật An ninh mạng nói riêng và pháp luật nói chung với mục tiêu góp phần xây dựng không gian mạng lành mạnh từ cơ sở, tăng cường kỹ năng nhận diện âm mưu, thủ đoạn gây mất an ninh mạng, âm mưu “diễn biến hòa bình”, kích động, lôi kéo, lợi dụng vỏ bọc “diễn đàn dân chủ”, “xã hội dân sự”… để chống phá Ðảng, Nhà nước Việt Nam; xây dựng lực lượng chuyên trách bảo vệ không gian mạng, bảo đảm an ninh kinh tế số, đào tạo kết hợp kiến thức khoa học kỹ thuật và công nghệ với bồi dưỡng nghiệp vụ an ninh bảo vệ không gian mạng; xây dựng quyền kiểm soát, xác định chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, áp dụng các biện pháp bảo vệ liên tục về thông tin với các hệ thống thông tin quan trọng của quốc gia, sớm phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh với các tội phạm tấn công mạng, gián điệp mạng. Sự phối kết hợp chặt chẽ của các cơ quan chức năng và các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng sẽ là cách thiết thực để bảo vệ an ninh quốc gia, góp phần xây dựng môi trường xã hội ổn định cho cả cộng đồng.


THANH THÚY

ĐỪNG BỊ "LẠC TRÔI" THEO NHỮNG LỜI TUNG HÔ, KÍCH ĐỘNG



Ngày 25/8, TAND cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm, xét đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Thị Đoan Trang (sinh năm 1978, trú tại phường Cát Linh, quận Đống Đa, Hà Nội) trong vụ án “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”.


Cũng tương tự như tại phiên sơ thẩm, các trang mạng truyền thông chống phá Việt Nam ở nước ngoài lại tiếp tục điệp khúc “kêu oan” cho bị cáo Phạm Thị Đoan Trang. Họ đưa ra các bài viết tô vẽ hình tượng, tạo dựng một bị cáo “giữ vững chí khí”, lập luận rằng Phạm Thị Đoan Trang không phạm tội, cần “trả tự do ngay lập tức”!


Cũng với cách tiếp cận này, một số trang mạng còn dùng chiêu “cập nhật diễn biến phiên toà”, đưa thông tin, hình ảnh trong và ngoài phiên toà, thông tin về sức khoẻ, thái độ bị cáo, về thân nhân, việc tranh tụng tại toà… nhằm tạo điểm nhấn gây chú ý như là một sự kiện “bất thường”! Không ít bài viết lấy cớ “minh oan” cho bị cáo, đưa ra lời lẽ phê phán, đả kích phiên toà, đả kích nền tư pháp Việt Nam, từ đó coi đây là “dẫn chứng” để rêu rao trước công luận về “phiên toà bịt miệng”, một thể chế người dân bị bỏ tù vì “dám lên tiếng đấu tranh cho tự do, dân chủ”!


Điều đáng nói, sự tung hô, đánh tráo bản chất vụ án của các trang mạng truyền thông này được sự hậu thuẫn từ những tuyên bố sai lệch của một số cơ quan ngoại giao. Sau khi kết thúc phiên toà, tuyên bố của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nêu “Hoa Kỳ hết sức lo ngại trước bản án được giữ nguyên và bản án 9 năm tù đối với tác giả và nhà báo Việt Nam nổi tiếng Phạm Thị Đoan Trang”.


Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Ned Price nói rằng, việc bị cáo Phạm Thị Đoan Trang tiếp tục bị giam giữ là trường hợp mới nhất trong “một mô hình đáng báo động về việc bắt giữ và kết án các cá nhân ở Việt Nam vì đã bày tỏ ý kiến một cách ôn hòa”. Từ đó, bản tuyên bố “kêu gọi chính phủ Việt Nam trả tự do cho bà Trang”!


Trước đó, cũng chính Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã trao cái gọi là “Giải thưởng Phụ nữ Dũng cảm quốc tế (IWOC) năm 2022” cho Phạm Thị Đoan Trang với những lý do rất dễ tạo cớ cho các thế lực chống phá Việt Nam “bấu víu”. Cùng với đó, tuyên bố của người phát ngôn EU cũng đưa ra những thông tin lệch lạc khi cho rằng, tòa phúc thẩm Hà Nội giữ nguyên bản án đối với Phạm Đoan Trang với “tội danh mơ hồ”, “bắt giữ tuỳ tiện”, từ đó đưa ra những bình luận sai trái: “Nhiều vụ bắt giữ và kết án tùy tiện đối với các nhà hoạt động ôn hòa và các nhà báo là trái ngược trực tiếp với luật nhân quyền quốc tế”.


Cũng “té nước theo mưa”, tổ chức Phóng viên Không biên giới (RSF) ra thông cáo bày tỏ “sự bất bình trước bản án phúc thẩm của bà Trang”! Cũng chính RSF từng tung ra trò giải thưởng báo chí rồi “vinh danh” người đoạt giải RSF 2019 về quyền tự do báo chí cho Phạm Thị Đoan Trang. Lần này, RSF lấy cớ phiên phúc thẩm y án 9 năm tù với bị cáo rồi “kêu gọi các đối tác thương mại của Việt Nam, chẳng hạn như EU và Hoa Kỳ, yêu cầu trả tự do cho bà Phạm Đoan Trang như một phần trong thỏa thuận của họ với Hà Nội”.


Ông Daniel Bastard, Giám đốc văn phòng châu Á - Thái Bình Dương của RSF đưa ra những lời lẽ cố tình phớt lờ sự thật để nhằm lấy cớ chỉ trích Việt Nam: “Cuộc chiến của bà Trang cho một nền báo chí tự do cho tất cả mọi người vượt ra ngoài biên giới của đất nước, đó là cuộc chiến cho một quyền phổ biến”.


“Thổi lửa” sự kiện này, Ủy ban Bảo vệ ký giả (CPJ) dẫn lời ông Shawn Crispin, đại diện khu vực Đông Nam Á của tổ chức này: “CPJ mạnh mẽ lên án phán quyết của tòa án ngày hôm nay bác bỏ kháng cáo của nhà báo Phạm Thị Đoan Trang về bản án 9 năm tù của bà. Việt Nam phải trả tự do cho bà Trang và tất cả các nhà báo khác mà nước này giam giữ một cách sai trái sau song sắt”! Cũng chính CPJ mới đây đã ra tuyên bố sẽ trao “Giải thưởng Tự do báo chí Quốc tế (IPFA) năm 2022” cho Phạm Thị Đoan Trang, dự kiến vào cuối năm 2022.


Như vậy, từ những phát ngôn của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, EU với những thông tin sai lệch về vụ án cũng như đưa ra những tuyên bố, kêu gọi phi thực tế, các tổ chức chống phá Việt Nam như RSF, CPJ… được dịp “lên đồng” với các tuyên bố, thông cáo cố tình xuyên tạc sự thật, chỉ trích, miệt thị nền tư pháp, chỉ trích Đảng, Nhà nước Việt Nam dưới chiêu bài nhân quyền, tự do báo chí, tự do ngôn luận. Hành động này cũng thể hiện tương tự như tại phiên toà sơ thẩm hồi năm ngoái, dù nội dung, bản chất vụ án đã được thể hiện rất rõ và thông tin cụ thể trên các phương tiện truyền thông.


Đây là vụ án xét xử công khai, hoàn toàn không có gì “mập mờ” hay “tuỳ tiện” như những phán xét nói trên. Việc xét xử phúc thẩm là dựa trên kháng cáo của bị cáo và TAND cấp cao tại Hà Nội đã mở thủ tục phiên toà theo đúng trình tự pháp luật tố tụng hình sự. Cáo trạng tại phiên phúc thẩm một lần nữa nêu rõ, trong khoảng thời gian từ ngày 16/11/2017 đến 5/12/2018, bị cáo Phạm Thị Đoan Trang có hành vi làm, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, bài viết có nội dung nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Ngoài ra, bị cáo Đoan Trang còn trả lời phỏng vấn trên truyền thông nước ngoài với nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước, phỉ báng chính quyền nhân dân, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân. Cụ thể, Phạm Thị Đoan Trang có hành vi tàng trữ các tài liệu: “Báo cáo tóm tắt về thảm họa môi trường biển Việt Nam”; “Đánh giá chung về tình hình nhân quyền tại Việt Nam”; "Báo cáo đánh giá về luật tôn giáo và tín ngưỡng năm 2016 liên quan đến việc thực hiện quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng ở Việt Nam”. Cơ quan tố tụng xác định, các tài liệu trên có nội dung tuyên truyền, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân, tuyên truyền thông tin xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.


Vào giữa tháng 12/2021, TAND thành phố Hà Nội đã xét xử sơ thẩm vụ án và tuyên án phạt 9 năm tù đối với bị cáo Phạm Thị Đoan Trang về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Cần thấy rằng, việc toà phúc thẩm có giảm nhẹ hình phạt hay không phải căn cứ hồ sơ, tài liệu, có tình tiết mới nào là căn cứ giảm nhẹ hình phạt hay thái độ của bị cáo có ăn năn, hối lỗi so phiên sơ thẩm? Tuy nhiên, diễn biến tại phiên toà cho thấy, dù cáo trạng đã nêu rõ tính chất, mức độ phạm tội, các căn cứ kết án, bị cáo Phạm Thị Đoan Trang vẫn giữ thái độ như trước đó, tiếp tục cho rằng mình không phạm tội và kêu oan. Khi được HĐXX giải thích, bị cáo Phạm Thị Đoan Trang không thành khẩn khai báo, có thái độ chống đối tại phiên tòa. Trong khi đó, trên cơ sở xét hỏi công khai tại phiên phúc thẩm, căn cứ lời khai, tài liệu, kết quả giám định, tòa phúc thẩm nhận định, đủ cơ sở để kết luận hành vi phạm tội của bị cáo. Toà phúc thẩm đánh giá, việc tòa sơ thẩm tuyên án phạt 9 năm tù đối với bị cáo Phạm Thị Đoan Trang về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” là đúng người, đúng tội, không oan, hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội. HĐXX xác định hành vi của bị cáo Phạm Thị Đoan Trang là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý xâm phạm chế độ và Nhà nước trên lĩnh vực tư tưởng-văn hóa, xã hội, xâm phạm đến sự vững mạnh của chính quyền nhân dân. Bản thân bị cáo là người có trình độ nhận thức nhất định. Bị cáo hiểu và biết rõ hậu quả hành vi vi phạm của mình nhưng vẫn tích cực thực hiện trong một thời gian dài, do vậy cần phải xử phạt nghiêm minh. Vì vậy, toà phúc thẩm tuyên y án 9 năm tù đối với bị cáo.


Rõ ràng, chính bị cáo đã tự tước lấy cơ hội giảm nhẹ hình phạt với thái độ ngoan cố của mình. Bị cáo hay nếu ai đó còn suy nghĩ chờ đợi những tung hô, kêu gọi của các tổ chức, cá nhân bên ngoài để được giảm án, xoá án hay để thành “thần tượng”, thành tâm điểm của sự chú ý nào đó thì đây là lúc họ cần nghĩ lại, nhìn nhận lại.


“Đánh người chạy đi, không ai đánh người chạy lại”, luật pháp nghiêm khắc nhưng cũng nhân văn, khoan hồng với những ai biết lỗi lầm mà ăn năn sám hối, điều đó tùy thuộc ý thức và hành động của chính mình chứ không phải ở sự tung hô nào khác.


MINH HÀ 

THÚC ĐẨY "XÃ HỘI DÂN SỰ" Ở VIỆT NAM - HÌNH THỨC CHỐNG PHÁ NGUY HIỂM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 


Xã hội dân sự đúng nghĩa là một bước tiến quan trọng của xã hội loài người trong tiến trình hướng tới một xã hội phi nhà nước. Tuy nhiên, một số tổ chức đã mượn danh “xã hội dân sự” nhằm làm phức tạp tình hình chính trị - xã hội, hướng đến mục tiêu thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam như đã từng xảy ra ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây. Vì vậy, cần đề cao cảnh giác, nhận diện đúng và vạch trần thủ đoạn chống phá nguy hiểm này.


Nhận diện về xã hội dân sự và tổ chức “xã hội dân sự”


Xét về bản chất, xã hội dân sự (Civil Society) là xã hội tự lập phi nhà nước, được hình thành, hoạt động trong không gian công cộng và tư nhân, nằm ngoài vùng ảnh hưởng trực tiếp của yếu tố nhà nước. Không thể phủ nhận xã hội dân sự là một bước tiến của loài người trong tổ chức cộng đồng, bên cạnh sự tiến bộ của các thiết chế nhà nước ngày càng hợp lý (nhà nước chuyển từ cai trị sang phục vụ, nhà nước của dân, do dân, vì dân,…) thì xã hội cũng hình thành một loạt các thiết chế xã hội đa dạng, phong phú. “Điều này phù hợp với xu thế: nhà nước sẽ nhỏ đi và xã hội sẽ lớn lên, được C. Mác đề cập trong lý luận về chủ nghĩa xã hội”. Theo đó, chặng đường tiến bộ đáng kể của nhân loại biểu hiện ở vai trò tự quản trong cộng đồng ngày càng mạnh lên. Vai trò tự quản ấy chính là nằm ở các tổ chức xã hội với các thiết chế riêng bên cạnh thiết chế nhà nước, đó là các bộ phận hợp thành của xã hội dân sự.


“Giá trị đáng ghi nhận của xã hội dân sự là những phát kiến, kiến nghị, đề xuất có cơ sở lý luận và thực tiễn, phù hợp với quan điểm, đường lối của đảng cầm quyền. Theo C. Mác: chủ quyền của nhân dân phải trở thành vấn đề trung tâm trong một xã hội dân sự đích thực, làm cơ sở cho một chế độ dân chủ và một nhà nước dân chủ chân chính”. Đây là tư tưởng cách mạng sâu sắc, có tính định hướng cho việc nhìn nhận, đánh giá và xác định tính đúng đắn của một tổ chức được coi là xã hội dân sự đích thực hay giả danh để chống phá chính quyền nhân dân.


Hiện nay, xu hướng mang tính phổ biến trong quá trình phát triển của nhiều quốc gia là mối quan hệ hữu cơ giữa kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự. Theo đó, xã hội dân sự được cộng đồng quốc tế rất quan tâm, coi đó là một nhân tố của xã hội hiện đại, một tiêu chí đánh giá trình độ phát triển của chế độ xã hội ở một quốc gia. Nhiều văn kiện của các tổ chức quốc tế và khu vực đã có các quy định về quyền con người, về xã hội dân sự, tổ chức “xã hội dân sự”. Nhiều tổ chức “xã hội dân sự” đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; bảo đảm thực thi dân chủ, nhân quyền; góp phần tích cực vào thúc đẩy dân chủ hóa và xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển các lĩnh vực giáo dục, y tế, v.v.


Ở Việt Nam, quyền con người, quyền công dân là thành quả cách mạng được thể chế hóa và phát huy trên thực tế. Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) là sự kế thừa, phát triển những giá trị quyền con người, quyền công dân của nhân loại trong thời đại mới. Trong các bản Hiến pháp (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013) đều thể hiện rõ bản chất của chế độ ta là tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; là chế độ dân chủ do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Pháp luật Việt Nam đã quy định các điều kiện cụ thể để thành lập, hoạt động của tổ chức xã hội dân sự. Trên thực tế, bên cạnh các tổ chức chính trị, đoàn thể quần chúng, nhiều hội, tổ chức phi chính phủ đã và đang được thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, hoạt động công khai, hợp pháp, mang lại những lợi ích đáng kể cho xã hội và cộng đồng. Tuy nhiên, vẫn còn các hội, tổ chức quần chúng tự phát thành lập, không có tư cách pháp nhân, mang tính hình thức, chạy theo lợi nhuận kinh tế đơn thuần, hoạt động tùy tiện, kém hiệu quả, không phát huy được vai trò đại diện cho lợi ích của hội viên; cá biệt còn một số tổ chức có nhiều hoạt động vi phạm pháp luật, gây phương hại đến an ninh quốc gia, buộc các cơ quan chức năng phải chấn chỉnh, xử lý. Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch đã xuyên tạc, vu cáo Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền. Đó là sự đơm đặt vô căn cứ, mang nặng tính thù địch.


“Xã hội dân sự” trá hình - tiền đề của chế độ đa nguyên, đa đảng


Thực tế cho thấy, ngay từ ý tưởng cho đến quá trình thành lập và hoạt động, do tính chất nhạy cảm về chính trị - xã hội, nhiều tổ chức đã trượt khỏi bản chất, hình ảnh tích cực của xã hội dân sự đích thực, trở thành công cụ để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá chế độ. Các tổ chức núp bóng “xã hội dân sự” này thường trá hình dưới danh nghĩa bảo vệ “dân chủ”, “nhân quyền”, nhằm hướng lái vào phê phán vai trò lãnh đạo của Đảng, họ cho rằng: chế độ độc đảng là “độc tài toàn trị”, là nguyên nhân dẫn đến tham nhũng, sai lầm, v.v. Các thế lực thù địch còn tìm cách thao túng, lôi kéo, chi phối tổ chức “xã hội dân sự” cho mục tiêu của mình. Nhìn chung, các hoạt động chống phá dựa trên công cụ là tổ chức “xã hội dân sự” trá hình mà họ thường sử dụng, tập trung vào các thủ đoạn chủ yếu sau: Một là, đề cao vai trò “phản biện xã hội” của các tổ chức giả danh “xã hội dân sự”, hướng lái hoạt động của các tổ chức này dần đối lập về tư tưởng chính trị với Nhà nước ta. Hai là, thúc đẩy xu hướng thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, các cơ quan chức năng và chính quyền các cấp. Một số tổ chức “xã hội dân sự” không đứng trên lập trường của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; hướng lái mục tiêu hoạt động nhằm phục vụ lợi ích của một số nhóm người, đối lập với lợi ích của quốc gia, dân tộc. Ba là, lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” để hướng lái các tổ chức “xã hội dân sự” vào các hoạt động trái với tôn chỉ, mục đích, vi phạm pháp luật. Bốn là, gia tăng các hoạt động móc nối, liên kết, hậu thuẫn cho những người “bất đồng chính kiến” trong nước hoạt động theo khuynh hướng “độc lập”, hình thành “xã hội dân sự” trái pháp luật, chống Nhà nước, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức chính trị đối lập, thiết lập chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập nhằm tiến tới mục tiêu thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cùng với đó, họ mượn cớ “phản biện xã hội”, “kiểm soát quyền lực”, nhân danh “dân chủ”, “nhân quyền” để mị dân bằng các hoạt động xây dựng quan hệ thương mại và phát triển,... gây phương hại đến an ninh quốc gia.


Sử dụng công cụ tổ chức “xã hội dân sự” và chiêu bài “đa nguyên chính trị” làm mũi nhọn chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng


Với “yêu sách”, đòi mở rộng quyền tự do, dân chủ vô chính phủ ở các nước xã hội chủ nghĩa, chống lại nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện chế độ đa đảng và các tổ chức chính trị đối lập, các thế lực thù địch đã, đang thực hiện mưu đồ thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Gần đây, họ tập trung tuyên truyền luận điệu: độc quyền, thủ tiêu dân chủ là nguyên nhân của những sai lầm và yếu kém trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Họ tăng cường tập hợp lực lượng, thành lập các tổ chức, “đảng phái chính trị” đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, như: “Đảng Dân chủ của thế kỷ XXI”, “Thanh niên dân chủ Sơn Hà”, “Liên đảng Lạc Hồng”, “Đảng Thăng tiến Việt Nam”,... với mưu đồ tác động, thiết lập chế độ đa nguyên, đa đảng, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho sự thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam.


Thời gian tới, các thế lực thù địch tiếp tục núp bóng tổ chức “xã hội dân sự” trá hình làm công cụ quan trọng để chống phá Đảng, Nhà nước ta, với các hướng: Một là, gia tăng hoạt động truyền bá “xã hội dân sự” nhằm gây áp lực xã hội đối với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; làm tiền đề cho sự ra đời, phát triển của các tổ chức “xã hội dân sự” trá hình ở Việt Nam. Hai là, tiếp tục tác động, can thiệp vào vấn đề “dân chủ“ “nhân quyền”, coi đó như động lực để thúc đẩy sự phát triển của “xã hội dân sự” trá hình. Ba là, tập trung tuyên truyền, tác động để phá hoại nội bộ, thúc đẩy quá trình suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhằm gây dựng, phát triển lực lượng cho các tổ chức “xã hội dân sự” chính trị đối lập. Bốn là, gia tăng tác động nhằm chuyển hóa các tổ chức xã hội dân sự đích thực ở Việt Nam, nhất là các hội, các tổ chức phi chính phủ trở thành các tổ chức “xã hội dân sự” theo hướng đối lập với Nhà nước ta. Từ đó, trực tiếp chi phối, khích lệ các hoạt động chống phá chế độ, đòi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Năm là, sử dụng các tổ chức “xã hội dân sự” trá hình làm công cụ tuyên truyền, tác động tư tưởng, kích động, lôi kéo, tập hợp một bộ phận quần chúng nhân dân, kết hợp với các hoạt động gây mất ổn định chính trị - xã hội nhằm chuẩn bị điều kiện để phát động các hoạt động gây rối, như: “cách mạng đường phố”, “cách mạng màu”,... để thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam.


Kiên quyết đấu tranh với hoạt động thúc đẩy “xã hội dân sự” của các thế lực thù địch


Đấu tranh ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu trên, triệt tiêu mầm mống của các hoạt động gây rối, bạo loạn lật đổ là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Do đó, hệ thống chính trị và toàn xã hội cần thống nhất và nâng cao nhận thức, nhận diện đúng về “xã hội dân sự”; phân biệt và đánh giá đúng vai trò, vị trí, tầm quan trọng của các tổ chức xã hội dân sự đích thực; không nhầm lẫn, đánh đồng với các tổ chức “xã hội dân sự” trá hình. Làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, nâng cao tinh thần cảnh giác cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong việc cổ súy, lợi dụng, núp bóng tổ chức “xã hội dân sự” vào mục đích thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống âm mưu chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch, phản động, chống đối, cơ hội chính trị.


Cùng với đó, các cơ quan chức năng cần làm tốt công tác nắm tình hình, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp tập trung lãnh đạo, định hướng các tổ chức xã hội dân sự đích thực tuân thủ và chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các tổ chức xã hội dân sự phát huy tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, giữ vững ổn định chính trị - xã hội; thường xuyên đề cao cảnh giác trước âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, không để bị tác động, lôi kéo, kiên quyết bảo vệ Đảng, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đóng góp tích cực vào những thành tựu chung của đất nước trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế.


THANH LOAN

CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ TIN TƯỞNG VÀO TRIỂN VỌNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM



Bất chấp bối cảnh quốc tế còn nhiều khó khăn, nhất là giá năng lượng cao, hầu hết các tổ chức quốc tế và chuyên gia kinh tế nước ngoài đều nhận định lạc quan về triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2022 và 2023.


Quá trình phục hồi cho thấy những tín hiệu lan tỏa


Trong báo cáo kinh tế mới nhất về Việt Nam, Ngân hàng Standard Chartered dự báo nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục phục hồi trong tháng 8 và quá trình phục hồi đã cho thấy những tín hiệu lan tỏa.


Theo Standard Chartered, tăng trưởng doanh số bán lẻ dự kiến tăng 60,2% so với cùng kỳ trong tháng 8. Tăng trưởng sản xuất công nghiệp, xuất khẩu và nhập khẩu dự kiến sẽ tăng lần lượt 15,2%, 15% và 15,2%. Xuất khẩu, nhập khẩu và sản xuất công nghiệp được dự đoán sẽ tăng lần lượt 22,2%, 20% và 15%. Trên cơ sở đó, Standard Chartered duy trì dự báo tăng trường GDP của Việt Nam sẽ đạt 10,8% trong quý III-2022 và 3,9% trong quý IV-2022, đưa tăng trưởng GDP cả năm đạt 6,7%.


Trong khi đó, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho rằng, bất chấp bức tranh u ám của kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam đã phục hồi nhanh chóng trong nửa đầu năm nay sau khi đất nước triển khai tiêm chủng quy mô lớn và áp dụng chiến lược sống chung với Covid-19. Các chính sách hỗ trợ như lãi suất thấp, tăng trưởng tín dụng mạnh và Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ đã giúp đẩy mạnh sản lượng trong lĩnh vực sản xuất, cũng như sự phục hồi của lĩnh vực bán lẻ, du lịch.


Đó là cơ sở để IMF đưa ra dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 7% trong năm nay, tăng 1 điểm phần trăm so với dự báo trước đó. Đây là điều chỉnh tăng đáng kể duy nhất trong số các nền kinh tế lớn ở châu Á mà IMF đưa ra. Về triển vọng tăng trưởng của kinh tế Việt Nam trong năm sau, IMF hạ 0,5 điểm phần trăm xuống 6,7%. Tuy nhiên, dự báo tốc độ tăng trưởng của Việt Nam vẫn vượt xa những quốc gia khác và sẽ là tốc độ nhanh nhất trong số các nền kinh tế lớn của châu Á.


Hãng xếp hạng tín nhiệm Moody's cũng nâng dự báo tăng trưởng năm 2022 của Việt Nam lên 8,5% - mức cao nhất trong số các nền kinh tế châu Á - Thái Bình Dương. Việt Nam cũng là nền kinh tế duy nhất trong khu vực được Moody's điều chỉnh dự báo tăng. Moody's nhận định Việt Nam vẫn là nước thụ hưởng dòng vốn đầu tư chuyển hướng từ những bất ổn chính sách ở Trung Quốc.


Theo chuyên gia kinh tế Chua Han Teng thuộc DBS, ngân hàng lớn nhất Singapore, tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm nay sẽ đạt 7%, đáp ứng mục tiêu đề ra. Trong đó, lĩnh vực dịch vụ sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Hoạt động bán lẻ phục hồi ở tất cả các ngành nghề. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới đang gia tăng. Còn ông John Paul Lech, Giám đốc đầu tư tại quỹ đầu tư Matthew Asia thì cho rằng, mặc dù thường bị lu mờ bởi các đối thủ nặng ký của châu lục như Trung Quốc và Ấn Độ hay những thị trường mới nổi lâu đời hơn như Indonesia và Malaysia, nhưng Việt Nam hiện đang là một trong những thị trường tăng trưởng tốt nhất trong các nước đang phát triển.


Cùng với tốc độ tăng trưởng, các tổ chức quốc tế cũng đưa ra dự báo về quy mô GDP của Việt Nam trong tương lai. Theo Báo cáo Dự báo kinh tế toàn cầu của Viện Kế toán công chứng Anh và xứ Wales được công bố vào tháng 6-2022, quy mô GDP của Việt Nam năm 2022 đạt khoảng 391,92 tỷ USD và khoảng 424,45 tỷ USD trong năm 2023, tăng 32,53 tỷ USD.


Còn theo Báo cáo điểm lại cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam (ấn phẩm tháng 8-2022) của Ngân hàng Thế giới (WB), GDP Việt Nam năm 2022 sẽ đạt khoảng 395,6 tỷ USD và năm 2023 đạt khoảng 422,11 tỷ USD, tăng 26,51 tỷ USD. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) thì dự báo GDP Việt Nam năm 2022 đạt khoảng 391,92 tỷ USD, năm 2023 là khoảng 418,18 tỷ USD, tăng 26,26 tỷ USD.


Cảnh giác với những “cơn gió ngược chiều”


Mặc dù, đánh giá lạc quan về tăng trưởng của Việt Nam nhưng các tổ chức quốc tế cũng cảnh báo về những tác động tiêu cực bởi môi trường kinh tế toàn cầu bấp bênh. Ông Francois Painchaud, Trưởng đại diện IMF tại Việt Nam, nhận định triển vọng kinh tế thế giới đang ngày càng xấu đi và Việt Nam cũng không miễn nhiễm với những thách thức toàn cầu. Đó là các cú sốc đã giáng vào nền kinh tế vốn đã suy yếu vì đại dịch, như xung đột Nga - Ukraine, sự giảm tốc tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc.


Các chuyên gia của WB cảnh báo, quá trình phục hồi của kinh tế Việt Nam mới chỉ bắt đầu trong khi triển vọng về nhu cầu trên toàn cầu đang yếu đi cộng với rủi ro lạm phát gia tăng. Do đó, WB khuyến cáo các cấp có thẩm quyền cần chủ động ứng phó trước những rủi ro, bao gồm tăng trưởng chậm lại hoặc lạm phát đình đốn tại những thị trường xuất khẩu chủ lực, cú sốc giá cả hàng hóa thế giới tiếp tục diễn ra, cùng với đó là sự gián đoạn của các chuỗi cung ứng toàn cầu hay sự xuất hiện của các biến chủng Covid-19 mới. Ngoài ra, còn có những thách thức từ trong nước, như thiếu hụt lao động, rủi ro lạm phát gia tăng và rủi ro cao hơn trong lĩnh vực tài chính.


Còn theo các chuyên gia của Ngân hàng HSBC, Việt Nam cần hết sức lưu ý những “cơn gió ngược chiều” cản trở tăng trưởng thương mại đang mạnh dần lên. Một mặt, tiêu dùng thế giới đang dịch chuyển từ hàng hóa sang dịch vụ. Mặt khác, gián đoạn chuỗi cung ứng ở Trung Quốc khiến các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam gặp ngày càng nhiều khó khăn trong việc đảm bảo nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ cho hoạt động xuất khẩu trong tương lai. Đây chính là những yếu tố khiến xuất khẩu của Việt Nam khó có khả năng duy trì đà tăng trưởng vững mạnh như hiện nay.


Trước những tác động tiêu cực đó, Trưởng đại diện IMF tại Việt Nam Francois Painchaud cho rằng, nếu kinh tế phục hồi nhanh hơn dự kiến, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần thắt chặt hơn đối với các chính sách tài khóa, giúp kiểm soát áp lực lạm phát đang gia tăng. Ở chiều ngược lại, nếu những rủi ro đối với tăng trưởng kinh tế gia tăng, cần đảm bảo đưa ra các phản ứng tài khóa kịp thời. Cùng với đó là linh hoạt hơn trong việc tái phân bổ nguồn vốn trong gói phục hồi kinh tế.


WB cho rằng, trong chính sách tài khóa, Việt Nam nên tập trung triển khai gói chính sách hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế, đồng thời mở rộng mạng lưới an sinh xã hội có mục tiêu, nhằm giúp người nghèo và những người dễ tổn thương chống đỡ tác động của cú sốc giá nhiên liệu cũng như lạm phát gia tăng. Trong khu vực tài chính, WB khuyến nghị cần theo dõi chặt chẽ và tăng cường công tác báo cáo và dự phòng nợ xấu, đồng thời ban hành cơ chế xử lý tình trạng mất khả năng trả nợ. Việt Nam cũng cần tăng năng suất ở mức 2-3% mỗi năm bằng cách đầu tư cho hệ thống giáo dục. Lực lượng lao động có năng lực cạnh tranh sẽ đem lại hiệu suất trong dài hạn.


THANH THỦY

Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2022

VAI TRÒ CỦA MẠNG XÃ HỘI TRONG TUYÊN TRUYỀN CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

 


Sáng 26/8, tại Hà Nội, Học viện Báo chí và Tuyên truyền thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp Tạp chí Cộng sản tổ chức Hội thảo khoa học “Sử dụng mạng xã hội trong tuyên truyền chính trị ở Việt Nam hiện nay”.


Chủ trì hội thảo có các đồng chí: PGS,TS Lê Văn Lợi, Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; PGS,TS Vũ Trọng Lâm, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; PGS,TS Phạm Minh Sơn, Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng Khoa học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.


Phát biểu khai mạc hội thảo, PGS,TS Phạm Minh Sơn nhấn mạnh, tuyên truyền chính trị là nội dung quan trọng hàng đầu trong công tác tuyên giáo của Đảng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác những quan điểm, luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch trong tình hình mới.


Trong công tác tuyên truyền chính trị, báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng truyền thống vẫn là kênh thông tin chính thống, chủ yếu. Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, truyền thông số và internet, mạng xã hội đang có bước phát triển nhanh, mạnh và ngày càng chiếm ưu thế, trở thành một phương tiện hữu hiệu trong tuyên truyền tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới đông đảo quần chúng nhân dân.


Theo Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền, hội thảo là dịp để các nhà khoa học, nhà nghiên cứu và các chuyên gia bàn thảo sâu sắc và cụ thể hơn về vai trò, tầm quan trọng của mạng xã hội nói chung và trong tuyên truyền chính trị ở Việt Nam nói riêng. Đặc biệt, hội thảo cũng nhìn nhận, đánh giá một cách nghiêm túc, khách quan thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của công tác sử dụng mạng xã hội trong tuyên truyền chính trị ở nước ta thời gian qua. Từ đó, xác định những vấn đề cần tập trung giải quyết, những yếu tố tác động và tìm ra những giải pháp tối ưu nhất nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng mạng xã hội trong tuyên truyền chính trị ở Việt Nam.


Phát biểu đề dẫn hội thảo, PGS,TS Lê Văn Lợi nêu rõ, trong thời gian qua, mạng xã hội đã từng bước được sử dụng như một công cụ hữu hiệu, góp phần lan tỏa với tốc độ nhanh và quy mô rộng khắp những chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đến mọi tầng lớp nhân dân.


Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đề nghị các đại biểu, các nhà khoa học tập trung thảo luận, làm rõ vai trò, tầm quan trọng của mạng xã hội trong công tác tuyên truyền chính trị ở Việt Nam; thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò của mạng xã hội trong tuyên truyền chính trị của Đảng và Nhà nước ta thời gian qua; dự báo những nhân tố tác động, ảnh hưởng đến các giải pháp phát huy vai trò của mạng xã hội trong tuyên truyền chính trị ở Việt Nam thời gian tới…


Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và truyền thông, không gian mạng và mạng xã hội ngày càng khẳng định vai trò, một mặt trở thành nhu cầu tất yếu, không thể thiếu được của con người trong thời đại kỷ nguyên số. Mặt khác, các thế lực thù địch vẫn tận dụng cơ hội, tăng cường lợi dụng ưu thế của mạng xã hội để thực hiện các hoạt động tuyên truyền chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước ta.


Trước tình hình đó, PGS,TS Lê Văn Lợi nhấn mạnh cần thiết lập một hệ thống giải pháp đồng bộ, tranh thủ cơ hội, phát huy những mặt tích cực, đồng thời khắc phục hạn chế và tác động tiêu cực của mạng xã hội, nâng cao hiệu quả tuyên truyền chính trị trên mạng xã hội của nước ta, đưa công tác này trở thành kênh truyền thông hiệu quả, đưa mạng xã hội trở thành mũi tiến công sắc bén, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.


Các bài tham luận tại hội thảo đã tập trung phân tích, làm rõ vai trò của mạng xã hội trong tuyên truyền chính trị ở Việt Nam hiện nay; công tác quản lý Nhà nước đối với mạng xã hội và những vấn đề đặt ra đối với việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vấn đề tuyên truyền chính trị trên mạng xã hội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng mạng xã hội trong tuyên truyền chính trị…


Phát biểu tổng kết và bế mạc hội thảo, PGS,TS Vũ Trọng Lâm, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản cho biết, Ban tổ chức đã nhận được 101 bài tham luận từ các nhà lãnh đạo, quản lý ở Trung ương và địa phương, các nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành. Trong số đó, nhiều bài viết được đầu tư công phu, có chất lượng tốt, giàu hàm lượng khoa học, và đã kiến giải sâu sắc trên cả phương diện lý luận và thực tiễn về mạng xã hội và sử dụng mạng xã hội trong tuyên truyền chính trị ở Việt Nam hiện nay.


Các tham luận ở hội thảo nhấn mạnh cần xem xét, vận dụng những lợi thế của mạng xã hội, khắc phục thách thức mà mạng xã hội đặt ra, đồng thời đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền chính trị trên mạng xã hội ở Việt Nam.


Một số kiến nghị cụ thể gồm: đưa tuyên truyền chính trị trên mạng xã hội trở thành một kênh truyền thông hiệu quả, tuyên truyền, phổ biến lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức về mặt tích cực và tiêu cực của mạng xã hội, tạo ra phong trào ứng xử văn hóa trên mạng xã hội; xác định mạng xã hội là một kênh, công cụ quan trọng để theo dõi, đấu tranh, phản bác các luận điệu sai trái, thù địch; tiếp tục đổi mới hình thức và nội dung tuyên truyền chính trị cho phù hợp với các đối tượng quần chúng trên mạng xã hội…


THANH PHONG

CHỦ TỊCH NƯỚC DỰ "NGÀY HỘI TỚI TRƯỜNG" CÙNG CÁC EM NHỎ CHỊU NHIỀU MẤT MÁT DO COVID-19

 



Chiều 26/8, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã tới thăm hỏi, nói chuyện với thày và trò và chung vui trong “Ngày hội tới trường” tại Trường Tiểu học, trung học Cơ sở, Trung học Phổ thông "Hy Vọng" (Hope School), thành phố Đà Nẵng.


Cùng dự có Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn, lãnh đạo một số ban, bộ, ngành, địa phương và thành phố Đà Nẵng.


Trường Hy Vọng, thành lập bởi Tập đoàn FPT và Quỹ Hy Vọng, đặt tại Khu đô thị FPT City Đà Nẵng (Thành phố Đà Nẵng) nhằm nuôi dưỡng, đào tạo các em học sinh mất cha mẹ vì đại dịch COVID-19, với mong muốn chia sẻ, yêu thương, nâng bước trưởng thành cho các em. Với chủ đề “Lan tỏa yêu thương”, “Ngày hội tới trường” năm học 2022-2023 đánh dấu năm học đầu tiên của hơn 200 học sinh Hope School từ 41 tỉnh thành trên cả nước dưới mái nhà chung, với mong ước các con học sinh được đón nhận sự yêu thương của toàn xã hội, nâng bước trưởng thành cho các em.


Đúng như tên gọi của ngôi trường, “Hy Vọng” không chỉ là nơi để các em học sinh được đến trường, được học tập và phát triển toàn diện, mà hơn hết nơi đây chính là ngôi nhà tràn ngập tình yêu thương ấm áp dành cho những em nhỏ đã chịu mất mát của đại dịch COVID-19. 


Phát biểu tại đây, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc bày tỏ vui mừng đến thăm thày và trò Trường Hy Vọng - một cơ sở giáo dục mang ý nghĩa nhân văn cao cả. Nhắc lại những hậu quả đau thương của nhân dân cả nước do đại dịch COVID-19, nhiều em nhỏ mất người thân, nhiều em mất cả cha lẫn mẹ, điều kiện học tập hết sức khó khăn, Chủ tịch nước nhấn mạnh, sự ra đời của Trường Hy Vọng là niềm mong đợi không chỉ của các gia đình chịu mất mát đau thương do COVID-19 mà còn phát huy tinh thần nhân ái, truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong công tác chăm sóc, bảo trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Chủ tịch nước đánh giá cao Tập đoàn FPT đã có sáng kiến, hành động nhanh chóng, khẩn trương triển khai mô hình Trường Hy Vọng; ghi nhận sự đồng tâm, hiệp lực của nhiều ban, bộ, ngành, doanh nghiệp và thành phố Đà Nẵng chung tay hỗ trợ, ủng hộ tinh thần và vật chất cho các em học sinh.


Gửi tới các thầy giáo, cô giáo, các em học sinh Trường Hy Vọng những tình cảm thân thiết và lời chúc mừng tốt đẹp nhất, Chủ tịch nước nhấn mạnh, dân tộc ta có truyền thống vươn lên từ gian khó, với tinh thần tự lập, chịu thương chịu khó, rèn luyện ý chí phấn đấu. Chia sẻ về quãng thời gian vươn lên khắc phục hoàn cảnh khó khăn của bản thân mình trong tuổi học sinh, Chủ tịch nước mong muốn các em học sinh Trường Hy Vọng không ngừng nỗ lực, phấn đấu để trưởng thành, đóng góp xây dựng phát triển đất nước. Đó cũng là cách tốt nhất để báo hiếu, tri ân những cá nhân, tổ chức đã giúp đỡ cho ngôi trường.


Chủ tịch nước hy vọng và tin tưởng rằng các thầy cô Ban giám hiệu Trường Hy Vọng, Tập đoàn FPT với sự hỗ trợ của các cơ quan, đơn vị, ban ngành và cộng đồng sẽ cùng chung tay xây dựng một môi trường học tập, một ngôi nhà chung ấm áp tình người, tình thương và trí tuệ. Tạo điều kiện để các em học sinh trở thành những công nhân trí thức biết yêu thương tự tin và hạnh phúc.


Chủ tịch nước lưu ý Bộ Giáo dục và đào tạo, thành phố Đà Nẵng và các địa phương trong cả nước cần nghiên cứu mô hình liên thông như tại Trường Hy Vọng để hoàn thiện phương thức giáo dục phổ thông từ Tiểu học đến Trung học Phổ thông. Bộ Giáo dục và Đào tạo, các địa phương tiếp tục kiểm tra trường lớp, điều động bổ sung giáo viên, nhất là những vùng khó khăn để đảm bảo cho thành công của năm học mới. 


Tháng 9/2021, ông Trương Gia Bình - Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn FPT đã khởi xướng ý tưởng xây dựng một ngôi trường dành cho các em nhỏ mất cha, mẹ do COVID-19. Tròn một năm, Trường Hy Vọng đã hình thành và đón nhận 200 học sinh đầu tiên trong năm học 2022-2023, chính thức khởi động sứ mệnh trở thành một ngôi trường nơi các em được chăm sóc, yêu thương, học tập và rèn luyện, từ đó trưởng thành và góp phần xây dựng quê hương, đất nước trong tương lai.


Bên cạnh nguồn lực của Hội đồng sáng lập gồm Tập đoàn FPT, quỹ Hy Vọng - Hope Foundation, nhà trường còn đón nhận sự quan tâm, chung tay của nhiều doanh nghiệp, tổ chức đoàn thể và cá nhân cùng mong muốn mang đến những điều kiện nuôi dưỡng và yêu thương đủ đầy nhất đến với các em.  Trung ương Đoàn hỗ trợ công tác kết nối các em học tại các tỉnh thành trên toàn quốc với nhà trường, thuộc khuôn khổ chương trình “Nối vòng tay thương” phát động từ tháng 10/2021, kết nối các tổ chức, cá nhân quan tâm, đồng hành hỗ trợ trẻ em, học sinh mồ côi do đại dịch COVID-19 một cách lâu dài và bền vững. Quỹ Phúc Tâm tham gia đồng hành hỗ trợ di chuyển về quê thăm nhà cho các em ít nhất 2 lần/năm. Tập đoàn Thiên Long dành tặng 5.000 phần quà dụng cụ học tập và vui chơi, sáng tạo cho các học sinh của Trường Hy Vọng trong giai đoạn 5 năm (2021 - 2025). Tập đoàn Tân Long sẽ tài trợ thực phẩm cho học sinh; đồng thời tài trợ kinh phí xây dựng kho trữ lạnh cho Trường Hy Vọng để bảo quản.


Đồng hành với sự kiện Ngày hội tới trường năm đầu tiên của Hope School diễn ra chiều 26/8, đại diện Quỹ Vì Tầm Vóc Việt và Tập đoàn TH cho biết hai đơn vị đã hỗ trợ toàn bộ học sinh của trường 27.000 ly sữa tươi sạch TH true MILK trong năm học này.   


Các công ty thành viên trực thuộc Tập đoàn FPT như FPT Education, FPT Telecom, FPT Software… thường xuyên có những hoạt động hỗ trợ thiết thực về cơ sở vật chất, tài liệu học tập, hoặc tổ chức chương trình đào tạo, hướng dẫn kỹ năng mềm, hướng nghiệp.


MINH HÀ

BẢO VỆ TỔ QUỐC TỪ SỚM, TỪ XA



Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là sự kế thừa bài học, kế sách "giữ nước từ khi nước chưa nguy" trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Quan điểm này thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược, tính chủ động, sáng tạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Bảo vệ non sông, bờ cõi, bảo vệ quốc gia, lãnh thổ từ sớm, từ xa là sự vận dụng quan điểm chủ động phòng ngừa, làm cho nước nhà vững mạnh, tránh xung đột, có kế sách đối phó thù trong, giặc ngoài ngay từ khi chưa xảy ra cơ sự. Nhìn lại lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, ông cha ta chú trọng việc bảo vệ Tổ quốc từ xa, từ sớm bằng rất nhiều biện pháp. Về đối ngoại thì tích cực hoạt động bang giao, lấy hòa hiếu, hữu nghị làm trọng, nhất là với các nước láng giềng, tránh xung đột, binh đao. Về đối nội, nhà nước chăm lo xây dựng, phát triển kinh tế, củng cố sức mạnh vật chất và tinh thần, đoàn kết trong toàn dân, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, giữ vững phên giậu quốc gia, thực hiện kế sách khoan thư sức dân...


Thời Trần, quốc sách "ngụ binh ư nông" vừa đảm bảo sức lao động nông nghiệp, giảm thiểu chi phí quốc phòng thời bình mà vẫn đáp ứng được quân số sẵn sàng chiến đấu với số lượng lớn khi xảy ra chiến tranh. Đây là chính sách kết hợp kinh tế với quốc phòng sáng tạo, phù hợp hoàn cảnh một nước nhỏ, dân ít, kinh tế chủ yếu thuần nông, tiềm lực quốc phòng hạn hẹp nhưng lại phải luôn đối mặt nguy cơ xâm lấn từ ngoại bang. Chính sách này vừa hợp lòng dân, kinh tế có điều kiện phát triển, tiềm lực quốc phòng dự bị được tăng cường, vừa là cơ sở kinh tế, quốc phòng vững chắc để phát động cuộc chiến tranh nhân dân khi xảy ra chiến sự. Triều Trần có nhiều chính sách tiến bộ như chú trọng khai khẩn đất hoang để mở mang diện tích trồng trọt và giải quyết nạn nông dân ly tán. Việc đào kênh lấy nước trồng trọt, đắp đê phòng lụt được nhà Trần rất quan tâm. Lực lượng quân đội được huy động đắp đê, đào kênh. Trần Quốc Tuấn căn dặn tướng sĩ: "Các vương hầu và các tướng sĩ, ai nấy phải cẩn giữ phép tắc, đi đến đâu không được quấy nhiễu dân".


Sử cũ chép rằng, kháng chiến thắng lợi, sứ giả ta là Đào Tử Kỳ sang sứ Nguyên, Thượng thư Bộ Lễ nhà Nguyên là Trương Lập Đạo tiếp. Sau khi nêu sức mạnh vô địch của nhà Nguyên, nói rõ trên một nửa thế giới đã nằm trong bản đồ đế chế Nguyên, chỉ có An Nam là nước duy nhất chống lại, Trương Lập Đạo nói tiếp: "Vua tôi nước ngươi thật như ếch ngồi đáy giếng, coi trời nhỏ. Hỏi rằng được bao nhiêu sức người sức của, có địa lợi hiểm yếu gì mà dám chống lại thiên triều. Thành Thăng Long nhỏ bé kia của nước ngươi, quân thiên triều tới chỉ một cái đạp là san bằng". Sứ giả ta bình thản trả lời: "Các ông là nước lớn, chúng tôi là nước nhỏ, chúng tôi chỉ muốn yên ổn, không bao giờ muốn sinh sự, chỉ vì các ông cậy người đông sức mạnh, đến chực đè đầu cưỡi cổ chúng tôi. Vì lẽ phải giữ mình, chúng tôi phải chống lại. Người xưa có câu "trong chiến tranh lý thẳng thì thắng, lý cong thì thua", chúng tôi vì tự vệ nên chúng tôi thắng, các ông vì cướp đoạt nên các ông thua. Đó là lẽ tất nhiên, không thể cậy thế mạnh thế yếu, nước to nước nhỏ mà bàn được. Thành Thăng Long kia là thành nhỏ để phòng những kẻ trộm cướp vặt, phá tan nào có khó gì. Còn như để chống với kẻ địch bên ngoài đến cướp nước chúng tôi thì chúng tôi đã có một tòa thành vững vàng như núi, không kẻ nào phá được, đó là sức mạnh của toàn thể quân dân chúng tôi".


Bình luận về kế sách giữ nước dựa vào dân của triều Trần, nhà sử học Phan Huy Chú đánh giá: "Thời Trần, "phục binh ở nơi thuận tiện", lúc vô sự thì cho về làm ruộng, khi có động thì chiếu sổ gọi tên ra hết, cho nên binh vẫn đủ mà không phải chi phí nhiều, càng thêm hăng hái chống thù. Thế là thời Trần ai cũng là binh nên mới phá được giặc dữ, làm cho thế nước được mạnh... Cái chiến công dẹp quân Chiêm, phá tan quân Tống (thời Lý), cái oai hùng 3 lần đánh bại quân Nguyên (thời Trần) cũng đủ cho biết binh lực hai đời cường thịnh thế nào". Sự đồng tình ủng hộ của nhân dân là nền tảng cơ bản của công cuộc giữ nước, tạo nên thế lực, sức mạnh của quốc gia. Thời Lý, Trần tuy tương quan lực lượng quân sự ta thua kém địch nhưng thế trận lòng dân - sức mạnh tổng hợp toàn diện, điều đó được thể hiện rõ rệt. 


Trần Quốc Tuấn đã có những tổng kết quý giá về sức mạnh của nhân dân và sự cần thiết phải huy động sức mạnh to lớn ấy để giữ nước. Ông đã can vua Trần khi vua có ý định tu sửa lại kinh thành ngay sau kháng chiến thắng lợi: "Việc tu sửa lại thành trì không cần kíp lắm, việc cần kíp của triều đình phải làm ngay, không thể chậm trễ là việc úy lạo (thăm hỏi, giúp đỡ) nhân dân. Người xưa có câu "chung chí thành thành", nghĩa là ý chí của nhân dân là bức tường thành kiên cố, đó mới là cái thành cần sửa chữa ngay, xin nhà vua xét kỹ". Năm 1300, Trần Quốc Tuấn ốm nặng, vua Trần đến thăm và hỏi: "Nếu giặc phương Bắc lại sang thì làm thế nào để giữ được nước?". Quốc Tuấn trả lời: "Đời Đinh, Lê dùng được người tài giỏi, đất nước phương Nam mới mạnh mà phương Bắc mới mỏi mệt, suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được giặc Tống, đó là một thời... Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây, vì vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, nước nhà giúp sức nên giặc phải bị bắt. Nếu quân giặc sang xâm lược thì phải xem xét quyền biến, như người đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế... Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước".


"Khoan thư sức dân" trong thời bình là giảm bớt sự đóng góp, giảm huy động nhân, vật lực của nhân dân so với thời chiến. Đồng thời, phải làm cho nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Năm 1969, trước lúc đi xa, Bác Hồ căn dặn rằng, sau ngày thắng lợi, Chính phủ hãy miễn thuế nông nghiệp cho dân vài ba năm. Miễn thuế nông nghiệp chính là một nội dung quan trọng để "khoan thư sức dân".


Từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới đến trước Đại hội XII, nhất là Nghị quyết Trung ương 8, Khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, những vấn đề lý luận về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa được Đảng, Nhà nước ta tiếp tục nghiên cứu, vận dụng. Quan điểm này trở thành tư tưởng và hành động xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Tổng kết thực tiễn và lý luận bảo vệ Tổ quốc, lần đầu tiên trong văn kiện chính thức của một đại hội, quan điểm chủ động giữ nước trong thời bình, từ sớm, từ xa được nêu rõ. Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là bảo vệ từ trước, phòng ngừa từ trước, chủ động chuẩn bị các điều kiện để bảo vệ Tổ quốc ngay trong thời bình, khi đất nước chưa nguy, lấy việc phòng ngừa từ trước, từ xa theo phương châm xây dựng nước nhà vững mạnh, yên ổn, không phải chiến tranh là thượng sách. Quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa thể hiện tầm nhìn chiến lược mới về quốc phòng - an ninh. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: "Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế".


Thượng sách trong bảo vệ Tổ quốc là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, ngăn ngừa không để xảy ra xung đột, chiến tranh dưới bất cứ hình thức, quy mô nào. Muốn ngăn ngừa không để xảy ra chiến tranh, trước hết phải tập trung xây dựng đất nước thực sự ổn định và vững mạnh về mọi mặt ngay từ bên trong, lấy giữ vững ổn định chính trị là cơ bản, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho nước ta có nội lực vững mạnh, đủ khả năng, điều kiện ngăn ngừa, đẩy lùi các nguy cơ xảy ra chiến tranh, xung đột. Giữ vững ổn định và xây dựng đất nước giàu mạnh, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; gắn phát triển kinh tế - xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Tập trung xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, gắn bó mật thiết với nhân dân. Xây dựng hệ thống chính quyền nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, các tổ chức đoàn thể vững mạnh, các cộng đồng dân cư đoàn kết, văn hóa. Xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc làm chỗ dựa cho bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Thường xuyên nắm chắc tình hình thế giới, khu vực và trong nước, xử lý kịp thời, đúng đắn mọi tình huống diễn biến phức tạp ngay trong thời bình.


Nghị quyết Trung ương 8, Khóa XI được ban hành trên cơ sở thành tựu, kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn, nhất là trong thời kỳ đổi mới, hội nhập. Nghị quyết có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, thể hiện đường lối, tư duy mới, bước đột phá về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; xác định rõ mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện, tạo động lực thực hiện hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới.


THANH LOAN

Thứ Tư, 24 tháng 8, 2022

KỶ NIỆM 111 NĂM NGÀY SINH ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP (25/8/1911 - 25/8/2022)

 


Đại tướng Võ Nguyên Giáp có tên khai sinh Võ Giáp, bí danh là Văn, sinh ngày 25/8/1911 ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho nghèo, giàu lòng yêu nước. Sinh ra từ vùng quê giàu truyền thống yêu nước, trực tiếp chứng kiến cảnh đồng bào bị bè lũ thực dân và tay sai đàn áp, bóc lột đã nung nấu trong Võ Nguyên Giáp ý chí sôi sục và quyết tâm đứng lên đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc.


Trọn cuộc đời gắn bó với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, ở Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn sáng ngời phẩm chất cao quý của người chiến sĩ cách mạng kiên trung, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, suốt đời tận tụy hy sinh, một lòng, một dạ phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cộng sản. Dù trong lúc cách mạng gặp thuận lợi hay khó khăn, Đồng chí vẫn tin tưởng, thủy chung, son sắt với Đảng, với Nhân dân, đúng như lúc sinh thời Đồng chí đã từng nói “Tôi sống ngày nào, cũng là vì đất nước ngày đó”. 


Đại tướng là người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trước, trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong cuộc kháng chiến chín năm, Đại tướng được sống và làm việc bên cạnh Bác Hồ, được Bác Hồ giáo dục, rèn luyện và trao cho nhiều trọng trách trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, ngoại giao... Đại tướng đã nỗ lực phấn đấu học tập ý chí, tư tưởng, đạo đức, tác phong, lối sống của vị Lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh, luôn luôn tu dưỡng rèn luyện, nói và làm theo gương Bác Hồ vĩ đại.


Trong quá trình hoạt động cách mạng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp rất coi trọng tổng kết thực tiễn và chính từ đó Đồng chí càng hiểu sâu sắc hơn tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đồng chí là một trong những người sớm nghiên cứu và viết về Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách cơ bản, toàn diện, hệ thống và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt đã góp phần xây dựng nền móng cho bộ môn khoa học Hồ Chí Minh học. Với ba chuyên luận: “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam”, “Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh”, “Thế giới đổi thay, tư tưởng Hồ Chí Minh còn sống mãi”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã góp phần đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống, trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong thời kỳ mới.


Đại tướng Võ Nguyên Giáp là nhà chỉ huy quân sự có tài thao lược kiệt xuất, bậc thầy về chiến lược, chiến thuật quân sự. Đại tướng là vị tướng tài ba, người cầm quân rất cẩn trọng trong so sánh tương quan lực lượng đôi bên, luôn chủ động bắt buộc đối phương bị động thay đổi thế cờ, đánh theo cách đánh của ta, vì thế mà phá sớm về chiến thuật, chiến dịch, chiến lược, dẫn đến thất bại hoàn toàn của địch. Điển hình, đó là quyết định chuyển phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” giành thắng lợi trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là quyết định chọn đúng hướng đột phá chiến dịch vào Buôn Ma Thuột - Tây Nguyên; kịp thời nắm bắt thời cơ chiến lược, đề nghị chuyển sang kế hoạch sớm giải phóng miền Nam trong năm 1975; kịp thời chỉ đạo mở các chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và giải phóng quần đảo Trường Sa, phê chuẩn đề nghị thành lập cánh quân phía Đông và ra mệnh lệnh “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa" cho toàn quân xốc tới; ra lệnh cho cánh quân phía Đông tiếp tục phát triển tiến công, không chờ đợi để nhanh chóng tiến vào giải phóng Sài Gòn, cùng với 4 cánh quân khác mãnh liệt đánh vào sào huyệt địch trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Trong các chiến dịch lớn có tính chất quyết định, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn thể hiện sự quyết đoán, sắc bén và có tư duy quân sự, chiến thuật, tài chỉ huy đặc biệt.


Không chỉ kiên định và quán triệt sâu sắc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người đã tiến hành đường lối chiến tranh Nhân dân hết sức độc đáo, sáng tạo, sinh động và đầy hiệu quả. Đồng chí hết sức coi trọng việc xây dựng tổ chức đảng “trong sạch, vững mạnh” trong các lực lượng vũ trang, đặc biệt quan tâm, chăm lo xây dựng bản lĩnh chính trị, bản lĩnh chiến đấu, chiến thuật quân sự, khả năng tác chiến; giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong cán bộ, chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được Nhân dân hết lòng kính trọng, suy tôn là vị “Đại tướng của Nhân dân”. Cán bộ, chiến sĩ Quân đội mến phục, suy tôn là “Người anh Cả” duy nhất của Quân đội ta, xứng đáng là “Chính ủy của các Chính ủy, Tư lệnh của các Tư lệnh, Tướng của các Tướng”, “Tổng Tư lệnh biết quý từng giọt máu mỗi chiến binh”. Thế giới cũng rất nể phục nhân cách, đức độ của Đại tướng, tôn vinh Đại tướng là Anh hùng dân tộc của Nhân dân Việt Nam.


THANH PHONG

CHUNG TAY CHẶN ĐỨNG TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI: NHỮNG MẢNH ĐỜI ĐẮNG CHÁT CỦA NẠN NHÂN BỊ MUA BÁN

 


Lợi dụng sự thiếu hiểu biết của một số phụ nữ, trẻ em, tội phạm mua bán người đã dụ dỗ, lôi kéo, lừa bán những nạn nhân này. Khi đã sa chân vào cạm bẫy của tội phạm mua bán người, nạn nhân chịu đủ những đau đớn, hành hạ, tủi nhục và không phải ai cũng có may mắn thoát khỏi những "cạm bẫy người" đó.


Những cạm bẫy "màu hồng"


Gắn bó nhiều năm với nhiệm vụ phòng, chống tội phạm mua bán người, Đại úy Trần Văn Toàn, Phòng CSHS, Công an tỉnh Lai Châu hằn in những ký ức buốt nhói về các nạn nhân của tội phạm mua bán người được anh và đồng đội, cơ quan chức năng phát hiện, giải cứu. Lấy ra trong tủ những chồng hồ sơ về đấu tranh tội phạm mua bán người, Đại úy Trần Văn Toàn cho biết: "Mỗi hồ sơ là một phận người, nhưng các nạn nhân đều chung hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bị lừa bán. Có những người chưa được giải cứu về quê hương".


Trong hồ sơ phòng, chống tội phạm mua bán người do Đại úy Trần Văn Toàn quản lý, vụ án đối tượng Ma A Hồng lừa bán em Lùng Thị S. khiến cho anh và đồng đội mất khá nhiều thời gian để xác minh, tìm kiếm nạn nhân. Nạn nhân ở Dào San là một trong những xã có điều kiện kinh tế, xã hội còn gặp nhiều khó khăn của huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu. Vì đời sống còn nghèo, trình độ nhận thức của nhiều người vẫn còn hạn chế, nên tiềm ẩn nguy cơ, hệ lụy của tội phạm mua bán người.


Hai năm trước, đối tượng Ma A Hồng (SN 1995, ở bản Sin Chải, xã Mù Sang, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu) quen biết với em Lùng Thị S ở huyện Phong Thổ. Cả hai kết bạn qua Facebook và thường xuyên nhắn tin chuyện trò với nhau. Những lời đường mật cùng viễn cảnh màu hồng của miền đất hứa mà Hồng rót vào tai em S. khiến cô gái mới lớn mường tượng ra một khung cảnh tươi vui, hạnh phúc. S nói muốn đi làm thuê và được Hồng hướng dẫn đưa xuống TP Lai Châu để tìm việc làm. Cả hai hẹn nhau khi nào S xuống chợ Mường So thì Hồng sẽ ra đón. Không tìm được việc ở chợ Mường So, Hồng điện thoại cho một người đàn ông ở Trung Quốc để hỏi việc làm cho S. Đối tượng này nói có rất nhiều việc nhẹ lương lại cao. Chỉ cần hàng ngày lên nương bẻ hoa chuối, số tiền S nhận được sẽ rất lớn, thoải mái tiêu xài và gửi về cho bố mẹ.


Tối 24/3/2021, Hồng chở em S trên xe máy đi đến khu vực biên giới Việt Nam - Trung Quốc thuộc bản Lùng Than, xã Mù Sang, huyện Phong Thổ. Lúc này, đối tượng người Trung Quốc ra đón. Vừa gặp, đối tượng trên kéo Hồng ra xa và thầm thì ngã giá muốn mua em S mang về Trung Quốc để bán cho những người đàn ông làm vợ. Trước sức mạnh của đồng tiền, gã thanh niên mất nhân tính đã đồng ý bán S cho đối tượng người Trung Quốc để lấy 5.000 NDT. Sau khi đối tượng người Trung Quốc lừa đưa em S sang bên kia biên giới, Hồng cầm tiền lội suối trở về nhà. Sau khi bị lừa bán sang Trung Quốc, ngày 9/6/2021, em S được cơ quan chức năng của Trung Quốc giải cứu, trao trả về Việt Nam qua cửa khẩu Quốc tế Lào Cai. Khi về đến Việt Nam, S đã đến cơ quan Công an trình báo, tố giác hành vi lừa bán người của Hồng.


Cũng với "bẫy" dẫn đi tìm việc làm để lấy lương cao, em Lựu Thị X ở huyện Phong Thổ đã bị các đối tượng mua bán người lừa bán sang Trung Quốc. Thời điểm bị lừa bán, em X. mới có 16 tuổi. Ở bên kia biên giới, X bị các đối tượng ma cô bán cho một động mại dâm. Trải qua vô vàn tủi nhục nhưng X. vẫn luôn nung nấu tìm mọi cách để thoát khỏi đám buôn người, trở về với gia đình, bố mẹ. Trong một lần được ra ngoài mua đồ, X đã tìm cách thoát khỏi sự kèm cặp của các đối tượng chăn dắt rồi băng rừng vượt núi, đêm ngày không nghỉ để về Việt Nam. Khi sức lực tưởng như cạn kiệt sau nhiều đêm ngày bỏ chạy liên tục không ngủ, ở mép đường biên giới, em X may mắn gặp được lực lượng Công an và Biên phòng Việt Nam đang tuần tra, trước khi các đối tượng buôn người đuổi theo bắt giữ trở lại. 


Gian nan hành trình thoát "bẫy"


Những ngày này, chị Tẩn Tả M ở huyện Phong Thổ cùng chồng sớm tối lên nương làm rẫy, trồng rau, thu hái thảo quả mang xuống chợ phiên bán lấy tiền. Hai đứa con của chị M một cháu 2 tuổi, cháu thứ 2 mới được 6 tháng. Dù hiện tại đã trở về gia đình, song ký ức hãi hùng về những ngày tháng bị lừa bán sang bên Trung Quốc vẫn chưa lúc nào thôi nguôi trong chị M. Được sự động viên của Phòng CSHS, Công an tỉnh Lai Châu, chị M thuật lại đứt quãng cạm bẫy mình mắc phải và hành trình trốn chạy khỏi đám mua bán người trong tiếng khóc nghẹn với chúng tôi.


Năm ấy khi vừa mới tròn 15 tuổi, trong một lần ra khỏi bản để đi chơi, giữa rừng ban trắng, chị M gặp một nam thanh niên ăn diện khá bảnh bao. Nam thanh niên chủ động làm quen với chị M, đồng thời tỏ ra là người khá hào phóng khi mua tặng cô gái này dầu gội đầu, vòng bạc, quần áo. Gia cảnh nghèo khó, nhận được quà của người thanh niên trên, chị M vui lắm. Đối tượng tiếp tục nói những lời dễ nghe, muốn đưa chị M xuống núi, về xuôi để tìm việc làm, rồi cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình. Tin tưởng những lời hứa hẹn và tương lai tươi sáng do đối tượng vẽ ra, chị M đồng ý đi theo đối tượng.


Khi chiếc xe máy đối tượng chở chị M vừa dừng lại ở một bản giáp biên giới với Trung Quốc, chị đã thấy những đối tượng mua bán người đứng chờ sẵn. Lúc này, chị M mới biết mình bị lừa bán, vội vàng nhảy xuống xe bỏ chạy nhưng đã bị chúng khống chế đưa sang Trung Quốc. Ở xứ người, chị M bị chúng rao bán làm vợ của một người đàn ông bản địa. Người này cũng nghèo khó, không có đủ tiền cưới vợ người Trung Quốc, nên đi vay mượn tiền để mua vợ từ những tên mua bán người xuyên quốc gia. Cuộc sống với người chồng Trung Quốc chưa khi nào chị M biết tới niềm vui bởi sự độc đoán, gia trưởng cùng những trận đòn thừa sống thiếu chết mà gã chồng này giáng xuống đầu chị. Sống trong tủi hổ, đau đớn, phải mất 5 năm, chị M mới có cơ hội ra khỏi khu vực mình sinh sống và bỏ trốn, được các lực lượng chức năng giải thoát, đưa trở về Việt Nam, đoàn tụ cùng gia đình.


Bế con trai mới hơn 1 tháng tuổi trên tay, động tác của chị Lù Thị U ở huyện Nậm Nhùn vẫn còn lóng ngóng vì lần đầu làm mẹ khi tuổi đời còn khá trẻ. Bà ngoại của cháu bé lúc nào cũng túc trực ở bên hỗ trợ cô con gái. Gia cảnh khó khăn, cả nhà chỉ trông chờ vào việc đánh bắt thủy hải sản ở đầu nguồn sông Đà. Có hôm thời tiết thuận lợi, họ đánh bắt được vài ki-lô-gam cá đổi bán lấy gạo, nhưng cũng có ngày mưa rừng nước động, bố của chị U lại ra về tay trắng. Chị U cũng là nạn nhân của tội phạm mua bán người.


Vài năm trước, chỉ vì nhẹ dạ nghe lời dụ dỗ của đối tượng "chat chít" qua Facebook, chị đã theo chúng xuống núi đi chơi. Sau hơn một ngày đường, các đối tượng đã mang bán chị qua biên giới. May mắn chị không bị bán vào động mại dâm hay gả làm vợ cho đàn ông Trung Quốc, song nhà xưởng nơi chị làm việc có chế độ vô cùng hà khắc, đã vắt kiệt sức lao động của chị. Dù vậy, chị không được bọn chủ trả bất cứ khoản tiền công nào, bởi lý do chị phải làm bù lại khoản tiền các đối tượng đã bỏ ra mua chị về từ đám mua bán người. Nhiều lúc kiệt sức, bị đánh đập, bỏ đói, chị U chỉ muốn tự kết liễu cuộc đời mình, nhưng nghĩ đến bố mẹ, các em ở nhà, chị lại cắn răng gượng dậy. Nhờ vào may mắn và kiên trì của bản thân cùng sự hỗ trợ giúp đỡ của lực lượng Công an hai nước Việt Nam và Trung Quốc, chị U mới có thể thoát khỏi nơi giam cầm, lao động khổ sai trên để trở về quê hương.


MINH HÀ

Thứ Ba, 23 tháng 8, 2022

HƯỚNG DẪN TẠM THỜI GIÁM SÁT BỆNH ĐẬU MÙA KHỈ

 


Ngày 22/8, Bộ Y tế ban hành Quyết định 2265/QĐ-BYT Hướng dẫn tạm thời giám sát và phòng, chống bệnh đậu mùa khỉ. Hướng dẫn này sẽ được cập nhật, bổ sung, chỉnh sửa khi ghi nhận thông tin mới về tình hình dịch hoặc đặc điểm mới của bệnh ảnh hưởng tới việc giám sát, phòng chống.


Đến ngày 15/8, đã ghi nhận trên 35 nghìn ca mắc đậu mùa khỉ tại 92 quốc gia, trong đó có 12 trường hợp tử vong. Hiện, một số quốc gia gần với nước ta như Thái Lan, Singapore, Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản đã ghi nhận trường hợp bệnh xâm nhập.


Đến ngày 21/8, Việt Nam chưa ghi nhận trường hợp bệnh đậu mùa khỉ.


Ngày 22/8, Bộ Y tế ban hành Hướng dẫn tạm thời giám sát và phòng, chống bệnh đậu mùa khỉ được áp dụng tại các cơ sở y tế dự phòng và khám, chữa bệnh trên toàn quốc.


Phân loại các trường hợp


Trường hợp bệnh nghi ngờ (trường hợp bệnh giám sát) là trường hợp có phát ban cấp tính dạng mụn nước hoặc mụn mủ và không giải thích được bằng các bệnh phát ban phổ biến khác (thủy đậu, herpes, sởi, nhiễm trùng da do vi khuẩn, lậu, giang mai...),


Bệnh có một hoặc nhiều triệu chứng sau: Đau đầu; sốt (>38,5℃); Nổi hạch (sưng hạch bạch huyết); Đau cơ, đau lưng, đau nhức cơ thể; Đau lưng; Mệt mỏi.


Bệnh có một hoặc nhiều yếu tố dịch tễ sau: Trong vòng 21 ngày trước khi khởi phát triệu chứng, có tiếp xúc với trường hợp bệnh xác định hoặc trường hợp bệnh nghi ngờ, thông qua tiếp xúc vật lý trực tiếp với da hoặc tổn thương da (bao gồm cả quan hệ tình dục), hoặc tiếp xúc với các vật dụng bị ô nhiễm như quần áo, giường, đồ dùng cá nhân của người bệnh.


Trong vòng 21 ngày trước khi khởi phát triệu chứng, có quan hệ với nhiều bạn tình.


Trường hợp bệnh xác định: bất cứ người nào có kết quả xét nghiệm dương tính với virus đậu mùa khỉ bằng kỹ thuật Real-time PCR và/hoặc giải trình tự gen.


Trường hợp bệnh loại trừ: là trường hợp nghi ngờ nhưng có kết quả xét nghiệm âm tính với virus đậu mùa khỉ bằng kỹ thuật Real-time PCR hoặc giải trình tự gen.


Người tiếp xúc gần được định nghĩa như sau:


- Có tiếp xúc trong vòng 1 mét với người bệnh trong khoảng thời gian từ khi người bệnh khởi phát triệu chứng đầu tiên đến khi người bệnh được cách ly y tế hoặc đến khi người bệnh khỏi bệnh (các ban đã khô cứng và bong vẩy).


- Tiếp xúc cơ thể trực tiếp với người bệnh bao gồm các tiếp xúc da kề da với người bệnh (như sờ, chạm, ôm hôn,…) và quan hệ tình dục.


- Phơi nhiễm trực tiếp gần với người bệnh:


+ Nhân viên y tế không sử dụng trang phục phòng hộ (PPE) thích hợp khi trực tiếp thăm khám, chăm sóc, điều trị người bệnh mắc bệnh đậu mùa khỉ.


+ Người cùng làm việc trong khoảng cách gần hoặc ở cùng phòng làm việc, với không gian kín hoặc thông khí kém.


+ Người sống trong cùng nơi ở/nơi sinh hoạt.


- Tiếp xúc trực tiếp với các vật dụng sinh hoạt/làm việc của người bệnh đậu mùa khỉ: quần áo, chăn, chiếu, gối, …


- Một số tình huống tiếp xúc/phơi nhiễm đặc biệt khác do cán bộ dịch tễ trực tiếp điều tra xác định, bao gồm cả phơi nhiễm trong phòng xét nghiệm.


Các biện pháp phòng bệnh đậu mùa khỉ


Biện pháp phòng bệnh không đặc hiệu


- Tránh tiếp xúc gần gũi với người mắc hoặc nghi mắc bệnh đậu mùa khỉ, tránh tiếp xúc trực tiếp với những vết thương hở, dịch cơ thể, giọt bắn và các vật dụng, đồ dùng bị nhiễm mầm bệnh.


- Che miệng và mũi khi ho hoặc hắt hơi, tốt nhất che bằng khăn vải hoặc khăn tay hoặc khăn giấy dùng một lần hoặc ống tay áo để làm giảm phát tán các dịch tiết đường hô hấp; rửa tay bằng xà phòng và nước sạch hoặc dung dịch sát khuẩn ngay sau khi ho, hắt hơi. Không khạc nhổ bừa bãi nơi công cộng.


- Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng và nước sạch hoặc dung dịch sát khuẩn tay.


- Người có triệu chứng phát ban cấp tính không rõ nguyên nhân kèm theo một hoặc nhiều triệu chứng nghi ngờ cần chủ động liên hệ với cơ sở y tế để được theo dõi, tư vấn kịp thời. Đồng thời, cần chủ động tự cách ly, tránh tiếp xúc gần với người khác, bao gồm cả quan hệ tình dục.


- Người đến các quốc gia/vùng lãnh thổ có lưu hành dịch bệnh đậu mùa khỉ (khu vực Trung và Tây Phi), cần tránh tiếp xúc với động vật có vú (chết hoặc sống) như: động vật gặm nhấm, thú có túi, động vật linh trưởng có thể chứa virus đậu mùa khỉ. Khi quay trở về Việt Nam cần chủ động khai báo với cơ quan y tế địa phương để được tư vấn.


- Bảo đảm an toàn thực phẩm; thực hiện lối sống lành mạnh, tăng cường vận động thể lực, nâng cao sức khỏe.


- Nhân viên y tế chăm sóc, điều trị cho người bệnh nghi ngờ hoặc xác định mắc bệnh đậu mùa khỉ cần sử dụng trang phục phòng hộ (PPE) thích hợp.


Biện pháp phòng bệnh đặc hiệu


Đến nay, kết quả một số nghiên cứu cho thấy vaccine đậu mùa trước đây có hiệu quả nhất định trong việc phòng, chống bệnh đậu mùa khỉ. Hiện một số ít quốc gia đã phê duyệt sử dụng vaccine phòng bệnh đậu mùa/đậu mùa khỉ thế hệ mới (thế hệ 2, 3) để sử dụng phòng, chống bệnh đậu mùa khỉ.


Tới thời điểm ngày 18/7/2022, WHO không khuyến cáo tiêm vaccine phòng, chống bệnh đậu mùa khỉ một cách rộng rãi, chỉ tiêm cho những người có nguy cơ cao như nhân viên y tế, người tiếp xúc trực tiếp với trường hợp bệnh và việc tiêm vaccine được xem xét, quyết định đối với từng trường hợp cụ thể khi có tiếp xúc và sau khi tiếp xúc với trường hợp bệnh. Các dữ liệu nghiên cứu về hiệu quả của vaccine phòng đậu mùa khỉ vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu.


Tại Quyết định 2265/QĐ-BYT, Bộ Y tế đã ban hành các định nghĩa ổ dịch; các quy định về giám sát bệnh đậu mùa khỉ, bao gồm giám sát nhập cảnh tại các cửa khẩu, giám sát cộng đồng và các cơ sở y tế.


Theo đó, giám sát nhập cảnh tại cửa khẩu thông qua đo thân nhiệt, giám sát của kiểm dịch viên y tế hoặc nhận thông tin từ người nhập cảnh chủ động khai báo.


Trường hợp phát hiện các triệu chứng nghi ngờ mắc bệnh thì chuyển nơi cách ly tạm thời để khai thác yếu tố dịch tễ (trong vòng 21 ngày trước khi xuất hiện triệu chứng, có tiếp xúc với người mắc/nghi ngờ mắc bệnh đậu mùa khỉ hoặc/và quan hệ tình với nhiều bạn tình) và khám sơ bộ.


Căn cứ theo kết quả khám/khai thác dịch tễ để quyết định chuyển hành khách về cơ sở y tế để chẩn đoán, điều trị hoặc đề nghị hành khách tự theo dõi sức khỏe trong vòng 21 ngày kể từ ngày nhập cảnh.


Người nhập cảnh từ quốc gia/khu vực có dịch lưu hành thì cần tự theo dõi sức khỏe trong vòng 21 ngày kể từ ngày nhập cảnh; khi có triệu chứng phát ban, nhức đầu, sốt, ớn lạnh, đau họng, khó chịu, mệt mỏi và nổi hạch cần hạn chế tiếp xúc người khác và tới cơ sở y tế gần nhất để được tư vấn, chẩn đoán, điều trị và phòng chống lây nhiễm.


Tổ chức giám sát, tăng cường giám sát dựa vào sự kiện trong cộng đồng và tại các cơ sở khám chữa bệnh để phát hiện sớm trường hợp nghi ngờ. Đặc biệt chú ý giám sát tại các cơ sở y tế chuyên khoa da liễu và các cơ sở khám chữa bệnh lây truyền qua đường tình dục (STIs), chú trọng giám sát trên đối tượng nguy cơ cao gồm người đồng giới và người có suy giảm miễn dịch.


Cũng tại Quyết định 2265/QĐ-BYT, Bộ Y tế hướng dẫn chi tiết các cơ sở y tế dự phòng và khám, chữa bệnh trên toàn quốc các biện pháp xử lý ổ dịch, đối với người bệnh (bao gồm trường hợp bệnh xác định hoặc trường bệnh nghi ngờ chưa có kết quả xét nghiệm); đối với người tiếp xúc gần, khử khuẩn và xử lý môi trường ổ dịch.


THANH PHONG