Tìm kiếm

Thứ Năm, 30 tháng 12, 2021

BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG: PHẠT THẬT NẶNG CÓ NGĂN ĐƯỢC VI PHẠM?

 


 

Dự thảo Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, mức xử phạt cao nhất cho một hành vi vi phạm lên tới một tỷ đồng.


Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) vừa hoàn thiện Dự thảo Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, trình Chính phủ xem xét, quyết định.


Dự thảo được xây dựng theo hướng đề xuất tăng mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, trong đó có hành vi sẽ bị xử phạt hành chính lên tới một tỷ đồng. Bên cạnh gắn trách nhiệm khắc phục hậu quả của các doanh nghiệp vi phạm, dự thảo Nghị định cũng quy định biện pháp xử lý mạnh tay như đình chỉ hoạt động, tước quyền sử dụng giấy phép môi trường nếu vi phạm nghiêm trọng hoặc kéo dài.


Nghị định được xây dựng dựa trên các quy định của Nghị định số 155/2016/NĐ-CP và Nghị định số 55/2021/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường để đảm bảo tính ổn định của hệ thống pháp luật; đồng thời cập nhật các quy định mới của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý trong bối cảnh mới, tình hình mới.


Theo Bộ TN&MT, các quy định đưa ra trong dự thảo Nghị định có tính răn đe các hành vi vi phạm; tăng cường việc hậu kiểm. Việc xử lý các hành vi vi phạm dựa trên nguyên tắc vi phạm càng lớn, mức xử phạt càng cao.


Theo báo cáo của Bộ TN&MT, năm 2019 cơ quan này xử phạt vi phạm hành chính 180 cơ sở/464 cơ sở được thanh kiểm tra, số tiền trên 52 tỷ đồng. Năm 2020, có 43 cơ sở/173 cơ sở được thanh kiểm tra bị xử phạt số tiền hơn 11,6 tỷ đồng.


Trong giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2020, các Bộ khác đã thanh tra, kiểm tra và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tổng số tiền 1.129 tỷ đồng. Ở địa phương, năm 2020 đã xử phạt vi phạm hành chính 3.232 vụ, với tổng số tiền xử phạt trên 131 tỷ đồng.


Số vụ vi phạm quy định về bảo vệ môi trường được phát hiện và xử phạt có giảm hàng năm nhưng đây vẫn là một lĩnh vực nóng, xảy ra ở nhiều địa phương, có những vụ việc kéo dài gây bức xúc dư luận.


Việc điều chỉnh theo hướng tăng nặng mức xử phạt hành chính và tăng các hình phạt bổ sung bên cạnh thêm chế tài xử lý còn có tác dụng răn đe, ngăn chặn các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, việc xử phạt khi có vi phạm như "bắt chạch đằng đuôi", bởi, hậu quả đối với môi trường sinh thái đã xảy ra, cần nhiều kinh phí, thời gian để khắc phục và khó khắc phục được triệt để.


Không đánh đổi môi trường để lấy tăng trưởng kinh tế, đó là quan điểm xuyên suốt của lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường vẫn là một trong những nguy cơ, thách thức không chỉ của nước ta trong quá trình phát triển. Thực tế, không ít địa phương cho doanh nghiệp "nợ" các tiêu chí về bảo vệ môi trường để kịp tiến độ, kế hoạch vận hành sản xuất. Thậm chí, có khu công nghiệp, nhà máy… đi vào hoạt động một thời gian rồi mới hoàn thiện hệ thống xử lý thải.


Việc tăng nặng biện pháp xử phạt hành chính và cả hình sự đối với các vi phạm trong lĩnh vực môi trường là hết sức cần thiết để đảm bảo doanh nghiệp tuân thủ các quy tắc bảo vệ môi trường. Khi dự thảo nghị quyết được thông qua, như "thanh gươm được tuốt khỏi vỏ", các quy định này phải được thực thi một cách quyết liệt, triệt để, không để xảy ra tình trạng nể nang, né tránh, bao che cho những vi phạm của doanh nghiệp.


Thay vì phạt và cấm, về lâu dài, cần phải ngăn chặn mọi hành vi gây nguy hại tới môi trường. Nếu doanh nghiệp chưa hoàn thiện hệ thống xử lý thải và cam kết thực hiện trách nhiệm của mình trong vấn đề bảo vệ môi trường, nhất quyết chưa cho đi vào hoạt động.  


CẢNH GIÁC VỚI LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA NGUYỄN ĐÌNH CỐNG

 



Trên trang mạng Baotiengdan có giật tít “Phản biện học thuyết của Mác” do Nguyễn Đình Cống đăng đàn. Nội dung “phản biện” của Nguyễn Đình Cống thực chất nhằm phê phán và từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin với mục tiêu là xóa nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Cần khẳng định dứt khoát rằng, những tác phẩm của C.Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung là một học thuyết cách mạng và khoa học không chỉ giải thích chính xác quy luật của sự vận động, phát triển thế giới khách quan, mà quan trọng hơn còn cải tạo thế giới hướng đến những điều tốt đẹp nhất cho tự nhiên, xã hội và con người. Điều đó không cần phải tranh cãi.


Có thể thấy những sai lầm mà Nguyễn Đình Cống “phản biện học thuyết của Mác” ở mấy điểm sau đây:


Trước hết, về nội dung và phương pháp tiếp cận vấn đề của Nguyễn Đình Cống là hoàn toàn thiếu khoa học, không toàn diện, cắt xén thông tin nên dẫn đến kết luận sai trái.


Mọi người đều biết khi bàn về bản chất con người C.Mác viết: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Bản chất con người được xem xét trong những điều kiện lịch sử cụ thể với những quan hệ xã hội hiện thực. Bản chất con người không phải ở tính cá nhân riêng biệt hoặc phi hiện thực. Mà trước hết là con người hiện thực đang sống, lao động của bàn tay khối óc của mình với những nhu cầu tối thiểu như ăn, mặc, ở, đi lại. Trong tổng hoà các quan hệ xã hội đa dạng, phong phú toàn bộ các quan hệ xã hội tạo thành tính chỉnh thể quyết định bản chất con người. Đồng thời, bản chất con người không phải là cái gì xa lạ, khó hiểu, thần bí mà nằm trong tính hiện thực; mang bản chất xã hội; điều đó làm cho con người khác căn bản về chất so với con vật. Đồng thời, C.Mác cũng không phủ nhận mặt sinh học của con người.


Như vậy, cách lập luận và phủ nhận quan điểm nói trên của C.Mác là không phù hợp cả về nội dung và phương pháp tiếp cận. Do đó, những kết luận mà Nguyễn Đình Cống đưa ra trong bản “bàn luận” là hoàn toàn sai trái.


Thứ hai, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đáp ứng khát vọng cháy bỏng đại đa số quần chúng nhân dân lao động lúc bấy giờ.


Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định giải phóng người lao động, xã hội khỏi mọi áp bức, bóc lột, xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng và tự do cho mọi người - đó là xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Điều này đã đáp ứng mọi nguyện vọng của đại đa số quần chúng lao động mà giai cấp công nhân đứng ở vị trí trung tâm.


Thực tiễn đã chứng minh, chủ nghĩa Mác - Lênin là vũ khí lý luận để giải phóng con người, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp công nhân và quần chúng lao động đem lại cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc cho con người trước vòng cương toả hà khắc của chế độ chính trị đương thời. Đồng thời, chỉ ra lực lượng giải phóng và phát triển xã hội là giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đem lại cho họ niềm tin về sức mạnh của chính mình với nhiều biện pháp khác nhau.


Xin lưu ý, C.Mác không và chưa bao giờ chỉ coi biện pháp bạo lực là duy nhất. Chủ nghĩa xã hội đã ra đời và phát triển, hiện nay tuy có gặp khó khăn, song xu thế phát triển là không thể đảo ngược - sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản và sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản là xu thế tất yếu như nhau.


Từ những vấn đề trên cho thấy, những điều mà Nguyễn Đình Cống “phản biện học thuyết của Mác” mang đầy tính quy chụp, thiếu tính khoa học. Thực chất đây là giọng điệu ngụy biện, độc hại với mục tiêu xuyên suốt nhằm phủ nhận lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội.


Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần nêu cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh vạch trần bộ mặt thật của các thế lực thù địch như Nguyễn Đình Cống nhằm bảo vệ, giữ gìn giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin và phát huy những giá trị đó trong sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

DẤU ẤN VIỆT NAM NĂNG ĐỘNG VÀ HIỆU QUẢ TẠI DIỄN ĐÀN LIÊN HỢP QUỐC

 



Đại diện Liên hợp quốc đánh giá cao Việt Nam đã đảm đương xuất sắc vai trò ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an với nhiều sáng kiến, đóng góp thiết thực cho các vấn đề toàn cầu.


Hai năm trước, trong cuộc trao đổi với phóng viên nhân sự kiện Việt Nam đảm nhiệm vị trí ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an từ ngày 1.1.2020, Phó Tổng Thư ký Liên hợp quốc phụ trách các hoạt động hòa bình Jean-Pierre Lacroix đã đánh giá cao và kỳ vọng vào những đóng góp của Việt Nam trong các hoạt động gìn giữ an ninh, hòa bình của Liên hợp quốc.


Ông Jean-Pierre Lacroix khẳng định: "Cá nhân tôi chắc chắn rằng Việt Nam sẽ là một nước ủy viên năng động, hiệu quả trong Hội đồng Bảo an.”


Đánh giá của ông Jean-Pierre Lacroix cũng như việc Việt Nam được bầu vào Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020-2021 với số phiếu ủng hộ gần như tuyệt đối đã thể hiện sự tin tưởng, kỳ vọng của quốc tế đối với năng lực và sự tham gia có trách nhiệm của Việt Nam trong nỗ lực chung nhằm duy trì hòa bình, ổn định, an ninh ở khu vực và trên thế giới.


Trên cương vị ủy viên không thường trực, Việt Nam đã tham gia bàn thảo, tìm giải pháp cho tất cả các vấn đề trong chương trình nghị sự Hội đồng Bảo an ở tất cả các khu vực, trong đó có các cuộc xung đột ở châu Phi, khủng hoảng nhân đạo ở Trung Đông, cũng như các chủ đề quan trọng như chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, bảo vệ thường dân trong xung đột vũ trang, an ninh biển, biến đổi khí hậu, ứng phó với đại dịch COVID-19...; thúc đẩy đồng thuận chung, thúc đẩy hợp tác, đối thoại, giảm căng thẳng, đối đầu; tìm giải pháp công bằng, hợp lý cho các vấn đề đe dọa hòa bình, an ninh khu vực và quốc tế; giữ vững nguyên tắc linh hoạt, khéo léo trong ứng xử với các nước, các bên.


Hai lần đảm nhận trọng trách Chủ tịch Hội đồng Bảo an tháng 1.2020 và 4.2021, Việt Nam đã điều hành hoạt động của Hội đồng Bảo an và xử lý các vấn đề phát sinh một cách thỏa đáng, hiệu quả, góp phần thúc đẩy công việc chung một cách suôn sẻ.


Trong tháng chủ tịch đầu tiên, Việt Nam đã chủ trì thành công nhiều công việc định kỳ và đột xuất của Hội đồng Bảo an.


Có thể kể tới hai điểm nhấn nổi bật là phiên thảo luận mở của Hội đồng Bảo an với chủ đề “Thúc đẩy tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc trong duy trì và an ninh quốc tế,” trong đó Hội đồng Bảo an lần đầu tiên thông qua một Tuyên bố Chủ tịch riêng về tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc. Sự kiện thứ hai là phiên họp về hợp tác giữa Liên hợp quốc và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).


Đây là lần đầu tiên chủ đề này được thảo luận tại Hội đồng Bảo an, do Việt Nam trên cương vị Chủ tịch ASEAN năm 2020 thúc đẩy.


Đánh giá về tháng Chủ tịch Hội đồng Bảo an đầu tiên của Việt Nam, đại diện các nước cho rằng việc đảm nhiệm vị trí chủ tịch ngay trong tháng đầu tiên trở thành ủy viên Hội đồng Bảo an là thách thức rất lớn và Việt Nam đã hoàn thành tốt nhiệm vụ này.


Nhiều ý kiến nhận định Việt Nam đã xây dựng chương trình nghị sự hợp lý, xử lý linh hoạt các vấn đề phức tạp nảy sinh...


Đại sứ, Trưởng phái đoàn thường trực Indonesia tại Liên hợp quốc Dian Triansyah Djani nhận xét: “Việt Nam đã đảm trách vị trí chủ tịch một cách rất hiệu quả và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình.”


Trong tháng chủ tịch thứ hai, Việt Nam đã đề xuất, chủ trì và hoàn tất với ba phiên họp điểm nhấn cấp cao về “Tăng cường hợp tác giữa Liên hợp quốc và các tổ chức khu vực trong thúc đẩy xây dựng lòng tin và đối thoại trong ngăn ngừa, giải quyết xung đột,” “Khắc phục hậu quả bom mìn và duy trì hòa bình bền vững: Tăng cường gắn kết để hành động hiệu quả hơn" và “Bảo vệ cơ sở hạ tầng thiết yếu đối với sự sống của người dân trong xung đột vũ trang,” được cộng đồng quốc tế đánh giá cao và các nước ủy viên Hội đồng Bảo an nhất trí bỏ phiếu ủng hộ để ra được hai Tuyên bố Chủ tịch và một nghị quyết.


Phó Tổng Thư ký phụ trách các vấn đề nhân đạo Mark Lowcock bày tỏ ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam đưa các chủ đề này ra thảo luận.


Bộ trưởng Ngoại giao Mozambique Verónica Nataniel cho rằng Việt Nam đã đóng góp một cách tích cực và hiệu quả cho hoạt động của Hội đồng Bảo an, trong đó bao gồm những sáng kiến thiết thực đối với hòa bình và an ninh tại châu Phi.


Việt Nam đã đóng góp thực chất vào công việc của Hội đồng Bảo an, xử lý khéo léo, thỏa đáng nhiều vấn đề hoà bình, an ninh quốc tế hệ trọng và phức tạp, trên cơ sở bảo đảm tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế; tích cực đóng góp, đề xuất nhiều sáng kiến thiết thực nhằm giải quyết hoà bình các xung đột, tranh chấp, phấn đấu thể hiện vai trò trung gian, cầu nối trên một số vấn đề khó, được Liên hợp quốc và tất cả các nước, kể cả các nước lớn, bày tỏ coi trọng và đánh giá cao.


Việt Nam đã thúc đẩy một cách hiệu quả các sáng kiến khác trong khuôn khổ Liên hợp quốc như giới thiệu và thúc đẩy Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua nghị quyết về Ngày Quốc tế phòng chống dịch bệnh (27.12); thành lập và đưa vào hoạt động Nhóm bạn bè Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 với hơn 113 nước tham gia; tái cử thành công vào Ủy ban Luật pháp quốc tế Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2021-2026; vận động ứng cử vào các cơ quan Liên hợp quốc khác như Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2023-2025.


“Việt Nam có tiếng nói mạnh mẽ và có được lòng tin của thế giới, nhất là ở châu Á, châu Phi và cả châu Âu cũng như Mỹ,” Đại sứ Philippe Kridelka, Trưởng phái đoàn thường trực Bỉ, đã chia sẻ như vậy.


Đại sứ Barbara Woodward, Trưởng Phái đoàn thường trực Anh tại Liên hợp quốc nhấn mạnh Việt Nam trực tiếp tham gia giải quyết nhiều vấn đề quan trọng nhưng không phải lúc nào cũng dễ nhìn thấy ở bề nổi, ví dụ như vấn đề vai trò của phụ nữ đối với hòa bình và an ninh, bảo vệ dân thường trong xung đột hay hành động giải quyết vấn đề bom mìn.


Tất cả những vấn đề này đều rất quan trọng đối với hòa bình và an ninh thế giới. Chính vì vậy, những đóng góp của Việt Nam là rất có giá trị.


Đặc biệt, Tổng Thư ký Liên hợp quốc António Guterres nhận định Việt Nam khi làm Chủ tịch Hội đồng Bảo an đã thể hiện sự khéo léo, vai trò trung gian, cầu nối trong hỗ trợ giải quyết bất động, tạo không khí hòa dịu giữa các nước lớn.


Trên cương vị Chủ tịch ASEAN năm 2020 và năm 2021 là nước ASEAN duy nhất tại Hội đồng Bảo an, Việt Nam đã đề cao vai trò trung tâm của ASEAN trong việc giải quyết các vấn đề an ninh khu vực cũng như tăng cường hợp tác giữa ASEAN và Hội đồng Bảo an/Liên hợp quốc thông qua việc tổ chức Phiên thảo luận mở đầu tiên của Hội đồng Bảo an về hợp tác giữa ASEAN và Liên hợp quốc (tháng 1.2020) và Phiên thảo luận mở về vai trò các tổ chức khu vực trong phòng ngừa xung đột và xây dựng lòng tin, do Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc chủ trì, đồng thời thúc đẩy Hội đồng Bảo an thông qua Tuyên bố Chủ tịch về nội dung này (tháng 4.2021); đề cao vai trò của ASEAN trong thảo luận và văn kiện của Hội đồng Bảo an về vấn đề Myanmar.


Đặc biệt, sáng kiến của Việt Nam về việc Chủ tịch ASEAN 2021 (Brunei) thông tin cho Hội đồng Bảo an về kết quả Hội nghị Cấp cao ASEAN, được các nước Hội đồng Bảo an đánh giá cao, bước đầu tạo thông lệ mới để đại diện ASEAN hiện diện, trình bày quan điểm tại Hội đồng Bảo an mỗi khi vấn đề Myanmar được thảo luận.


Tổng Thư ký Liên hợp quốc Guterres đã công nhận tầm quan trọng của khối các nước Đông Nam Á trong ngoại giao hòa giải, ngăn ngừa xung đột và xây dựng hòa bình quốc tế.


Chính vì vậy, ông đánh giá cao Việt Nam khi đề xuất thúc đẩy đưa mối quan hệ hợp tác này lên một tầm cao mới, phát huy hơn nữa tinh thần của chủ nghĩa đa phương.


Theo Đại sứ Nathalie Estival-Broadhurst, Phó Trưởng phái đoàn thường trực Pháp tại Liên hợp quốc, Việt Nam đã rất thành công trong việc kết nối ASEAN và Hội đồng Bảo an.


Trong khi đó, Phó Tổng Thư ký Liên hợp quốc, Thư ký điều hành Ủy ban Kinh tế-Xã hội châu Á-Thái Bình Dương của Liên hợp quốc (ESCAP) Armida Salsiah Alisjahbana nêu bật những đóng góp của Việt Nam trong vai trò kép Chủ tịch ASEAN 2020 và ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ này, trong đó có việc góp phần thúc đẩy quan hệ Đối tác toàn diện ASEAN-Liên hợp quốc.


Đại sứ Dian Triansyah Djani, Trưởng phái đoàn thường trực Indonesia tại Liên hợp quốc, nhấn mạnh rằng Việt Nam đã đóng góp đáng kể vào nâng cao tiếng nói và hình ảnh của ASEAN tại Hội đồng Bảo an.


Trưởng phái đoàn thường trực Philippines tại Liên hợp quốc, Đại sứ Enrique A. Manalo, khẳng định khi đưa được vấn đề ASEAN vào chương trình nghị sự của Hội đồng Bảo an, Việt Nam đã giúp nâng hình ảnh của ASEAN lên một tầm cao mới, nâng tầm quan hệ của các tổ chức khu vực với Liên hợp quốc, đặc biệt là Hội đồng Bảo an.


Với bước tiến hết sức quan trọng như vậy, các tổ chức khu vực có tiếng nói và vai trò lớn hơn hẳn trong giải quyết các vấn đề của thế giới như an ninh toàn cầu hay biến đổi khí hậu, đồng thời các vấn đề của khu vực cũng sẽ được giải quyết một cách thỏa đáng hơn.


Nhìn lại những đóng góp chủ động và hiệu quả của Việt Nam tại Hội đồng Bảo an, có thể dẫn lại lời bà Tatiana Valovaya, Tổng Giám đốc Văn phòng Liên hợp quốc tại Geneva trong cuộc gặp Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc hồi cuối tháng 11 vừa qua, theo đó, đại diện Liên hợp quốc đánh giá cao Việt Nam đã đảm đương xuất sắc vai trò ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020-2021 với nhiều sáng kiến, đóng góp thiết thực cho các vấn đề toàn cầu.

Thứ Ba, 28 tháng 12, 2021

“KIẾM PHẢI SẮC, LÁ CHẮN PHẢI VỮNG, TÂM PHẢI TRONG SÁNG”



Thủ tướng cho rằng, trong mọi hoàn cảnh, người chiến sỹ Công an cách mạng phải luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc và lợi ích của Nhân dân lên trên hết, trước hết; luôn giữ mình trong sạch, vững vàng, xứng danh là "thanh bảo kiếm" sắc bén, "lá chắn thép" vững chắc của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Và "kiếm phải sắc, lá chắn phải vững, tâm phải trong sáng".


Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 77, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh, trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội (TTATXH), đã có hàng ngàn tấm gương CBCS tận tụy, nêu cao tinh thần trách nhiệm, dũng cảm chiến đấu, hy sinh quên mình. Năm 2021, có 8 đồng chí hy sinh, 208 đồng chí bị thương, trong đó có 6 đồng chí hy sinh trong thực hiện nhiệm vụ phòng, chống dịch COVID-19...


"Những chiến công, thành tích và hy sinh của lực lượng CAND đã tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của lực lượng CAND. Đảng, Nhà nước trân trọng biểu dương và cảm ơn những đóng góp, cống hiến, hy sinh của CBCS lực lượng CAND Việt Nam anh hùng", Thủ tướng nhấn mạnh.


Năm 2022 là năm có ý nghĩa rất quan trọng, là năm thứ hai, năm bản lề thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Đại hội Đảng bộ Công an Trung ương lần thứ VII. Là giai đoạn phát triển mới có những cơ hội, thuận lợi nhưng khó khăn, thách thức là nhiều hơn... Do vậy, công việc của ngành Công an sẽ nhiều hơn, nặng nề và phức tạp hơn, với những nhiệm vụ lớn, khó khăn phải làm và cần làm tốt hơn nữa để đáp ứng yêu cầu cao của Đảng, Nhà nước và sự mong đợi, tin tưởng của Nhân dân.


Thủ tướng nêu rõ, mọi hoạt động của lực lượng CAND phải tuân thủ và bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng, quản lý của Nhà nước, góp phần phục vụ đắc lực, hiệu quả nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, đẩy mạnh chống "giặc nội xâm"; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu: "Văn hóa còn là dân tộc còn"; thúc đẩy mạnh mẽ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của đất nước.


Thủ tướng yêu cầu, lực lượng CAND tiếp tục gương mẫu, đi đầu trong tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; quán triệt, triển khai đồng bộ, hiệu quả đến tận cơ sở Nghị quyết của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh xây dựng lực lượng CAND thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới". Kịp thời cụ thể hóa, thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước trên lĩnh vực công tác Công an.


Lực lượng CAND phải chủ động nắm chắc, đánh giá và dự báo sát, đúng tình hình, tham mưu với Đảng và Nhà nước các chủ trương, giải pháp kịp thời, nhất là tham mưu chiến lược; giữ vững thế chủ động, sẵn sàng các phương án, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống đe dọa đến lợi ích quốc gia - dân tộc, lợi ích hợp pháp của chúng ta, an ninh chính trị, TTATXH; đẩy mạnh công tác nắm tình hình và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động...


Thủ tướng đề nghị xây dựng và phát huy mạnh mẽ "thế trận lòng dân" trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân, trọng tâm là các địa bàn chiến lược, tuyến biên giới, biển, đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người, các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung và đô thị lớn. Huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội tham gia phòng ngừa, đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm ANTT; từng bước đẩy lùi các loại tội phạm, nhất là tội phạm hình sự, tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu, tội phạm ma túy, môi trường, tội phạm sử dụng công nghệ cao...; không để hình thành các băng nhóm, tổ chức tội phạm hoạt động "lộng hành" theo kiểu "xã hội đen", bảo đảm trật tự, kỷ cương, cuộc sống bình yên, an toàn cho Nhân dân.


Đặc biệt, lực lượng CAND phải tiếp tục thể hiện tốt vai trò nòng cốt, trọng yếu, tuyến đầu; Đẩy mạnh sử dụng công nghệ cao, phối hợp cùng các lực lượng khác, các địa phương trên mặt trận phòng, chống dịch COVID-19. Công an các cấp, nhất là cấp cơ sở phải nắm chắc tình hình địa bàn, trọng dân, gần dân, vì Nhân dân phục vụ; chủ động phương án bảo đảm ANTT trong điều kiện thích ứng an toàn, linh hoạt và kiểm soát hiệu quả dịch bệnh COVID-19.


Nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả phối hợp, hiệp đồng tác chiến giữa CAND và QĐND và các ban, bộ, ngành trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, văn hóa. Ứng dụng khai thác hiệu quả hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, hệ thống Sản xuất, cấp và quản lý Căn cước công dân; Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ công tác bảo đảm ANTT và kết nối, chia sẻ với các bộ, ngành; góp phần phục vụ chuyển đổi số quốc gia, phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số, nhất là việc đẩy mạnh cải cách hành chính...


Thủ tướng nhấn mạnh việc tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành hoạt động của bộ máy, bảo đảm tinh gọn và hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tập trung chỉ đạo xây dựng Đảng bộ kiểu mẫu tiêu biểu, trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; gương mẫu và đi đầu trong thực hiện các Nghị quyết của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng (Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII và Kết luận số 21 ngày 25/10/2021 của Trung ương khóa XIII).


Đặc biệt, phải nêu cao trách nhiệm nêu gương của cấp ủy, lãnh đạo Công an các cấp, nhất là người đứng đầu; đồng thời hết sức chú trọng công tác giáo dục, rèn luyện CBCS về đạo đức, lối sống, tác phong công tác vì nước quên thân và thái độ vì Nhân dân phục vụ; xây dựng CBCS CAND "có trái tim nóng, cái đầu lạnh, đôi chân vững chắc, có bàn tay sạch và biết trọng danh dự" vì "danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất".


"Trong mọi hoàn cảnh, người chiến sỹ Công an cách mạng phải luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc và lợi ích của Nhân dân lên trên hết, trước hết; luôn giữ mình trong sạch, vững vàng, xứng danh là "thanh bảo kiếm" sắc bén, "lá chắn thép" vững chắc của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. "Kiếm phải sắc, lá chắn phải vững, cái tâm phải trong sáng", có như thế, mới xứng đáng với niềm tin, hy vọng và những tình cảm quý mến của Đảng, Nhà nước và Nhân dân dành cho lực lượng CAND Việt Nam", Thủ tướng căn dặn.


Thủ tướng bày tỏ tin tưởng, với sự đoàn kết, thống nhất, nỗ lực không ngừng nghỉ, quyết tâm chính trị rất cao, và với tinh thần mới, khí thế mới, động lực mới; công tác Công an sẽ có nhiều chuyển biến mới, mạnh mẽ, quyết liệt, thực chất, hiệu quả hơn. Lực lượng CAND sẽ phát huy cao độ truyền thống quý báu "Vì nước quên thân, vì dân phục vụ", hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, xứng đáng với danh hiệu "Lực lượng CAND anh hùng" của dân tộc Việt Nam anh hùng.

Thứ Hai, 27 tháng 12, 2021

NHẬN DIỆN BẢN CHẤT CỦA MỘT SỐ "GIẢI THƯỞNG NHÂN QUYỀN"

 



Như đã thành thông lệ, gần đến Ngày Nhân quyền quốc tế (10/12) năm nay một số tổ chức, hội nhóm lại rùm beng trao cái gọi "giải thưởng nhân quyền" cho vài ba người Việt Nam, rồi hết lời ca ngợi kẻ được "trao giải". Tuy nhiên, với những ai quan tâm từ thực tế hoạt động và bản án mà kẻ được "trao giải" đã phải nhận, không khó để nhận diện họ là ai. Ðồng thời, qua đó có thể thấy rõ hơn bản chất thật sự của một số giải thưởng mang danh nghĩa "nhân quyền".


Những năm qua, một số cái gọi là "giải thưởng nhân quyền" đã được các tổ chức, hội nhóm nhân danh "dân chủ, nhân quyền" lập ra và quảng bá rùm beng. Nhìn vào phía đứng ra trao giải có thể dễ dàng nhận thấy đó là các tổ chức, hội nhóm vốn thù địch, hoặc thiếu thiện chí với Việt Nam, như: tổ chức khủng bố "Việt tân", "Theo dõi nhân quyền, "Phóng viên không biên giới", "Tự do ngôn luận quốc tế", "Mạng lưới nhân quyền Việt Nam"…

 

Năm nay, lợi dụng sự kiện Ngày Nhân quyền quốc tế các tổ chức, hội, nhóm nói trên lại tiếp tục "bổn cũ soạn lại" trao và tuyên truyền rầm rĩ cái gọi là "giải thưởng nhân quyền" để thông tin xuyên tạc về tình hình nhân quyền Việt Nam, kêu gọi trả tự do cho các "tù nhân lương tâm" được họ bịa đặt, tưởng tượng ra. Chẳng hạn như ngày 6/12, trang mạng của tổ chức khủng bố "Việt tân" loan tin về cái gọi là "lễ trao giải thưởng nhân quyền Lê Ðình Lượng 2021" tổ chức ngày 11/12/2021 tại Houston (Mỹ).


Ðiều này cho thấy, chỉ riêng việc lấy họ tên một kẻ đang chịu án tù ở Việt Nam để đặt tên giải thưởng thì tổ chức khủng bố "Việt tân" đã tự bộc lộ bản chất. Bởi, năm 2018 tại thành phố Vinh (Nghệ An), phiên tòa sơ thẩm do Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh Nghệ An tổ chức, và sau đó là phiên tòa phúc thẩm do TAND cấp cao thành phố Hà Nội tổ chức, đã tuyên án Lê Ðình Lượng phạm tội "Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân" theo Ðiều 79 Bộ luật Hình sự năm 1999. Hội đồng xét xử nhận thấy Lê Ðình Lượng là thành viên đắc lực của tổ chức khủng bố "Việt tân" hoạt động tại các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,… vừa chống phá chế độ, vừa lôi kéo một số công dân Việt Nam vào tổ chức khủng bố này nên đã tuyên phạt Lê Ðình Lượng mức án 20 năm tù và 5 năm quản chế sau khi thực hiện xong án tù.


Việc Lê Ðình Lượng được tổ chức khủng bố "Việt tân" ca ngợi, lấy họ tên đặt cho một giải thưởng càng cho thấy đó là điều đã được tính toán để phù hợp với mục đích và thái độ thù địch đối với Việt Nam của tổ chức này. Với việc làm đó, tổ chức khủng bố "Việt tân" còn nhắm đến mục đích lôi kéo, kích động, cổ vũ một số kẻ hám danh lợi, bất chấp liêm sỉ, đầu cơ "dân chủ, nhân quyền", lập "thành tích" chống phá để được trao "giải thưởng" có kèm theo tiền bạc, tiếp tay cho "Việt tân" chống phá Việt Nam. Và đương nhiên khi phạm tội, bị xét xử, phạt án tù sẽ được "Việt tân" "tuyên dương" bằng giải thưởng.



Ðiểm mặt các đối tượng được tổ chức khủng bố "Việt tân" và các hội nhóm nhân danh "dân chủ, nhân quyền" trao "giải thưởng", như: Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Thúy Hạnh, Phan Kim Khánh, Phạm Thị Ðoan Trang… có thể thấy đều là người bị TAND ở Việt Nam xét xử, tuyên phạt án tù, hoặc đã bị khởi tố, bắt tạm giam chờ ngày xét xử, với tội danh "Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân", "Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam", "tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam", Ðể tô vẽ cho đối tượng được trao "giải thưởng", tổ chức khủng bố "Việt tân" và một số tổ chức, hội nhóm nhân danh "dân chủ, nhân quyền" luôn cố gán cho họ nhãn hiệu "nhà báo tự do", "nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền", "tù nhân lương tâm", "công dân yêu nước"... Từ đó khuyến khích các loại "nhà" này tiếp tục cổ súy, lôi kéo người khác tham gia, giúp thực hiện mưu đồ chống phá Ðảng, Nhà nước.


Ðiều kỳ quái là chủ đề năm nay của "giải thưởng nhân quyền Lê Ðình Lượng" được tổ chức khủng bố "Việt tân" loan báo có nội dung "vinh danh những hoạt động cứu trợ dân nghèo khó trong đại dịch Covid-19 vừa qua đã bị chính quyền bỏ rơi". Chủ đề tuy có vẻ khác với các năm trước, nhưng mục đích chống phá thì xem ra không có gì thay đổi.


Ðáng chú ý, gần hai năm qua, từ khi đại dịch COVID-19 xảy ra tại Việt Nam, chưa bao giờ "Việt tân" giảm bớt thái độ chống phá hoặc có bất kỳ động thái thiện chí nào với người dân Việt Nam đang gặp hoàn cảnh dịch bệnh khó khăn, ngoài việc hoàn toàn nhắm mắt làm ngơ trước các nỗ lực hết mình của Ðảng, Nhà nước, Chính phủ và toàn dân Việt Nam trong các hoạt động bảo vệ tính mạng con người, ban hành kịp thời rất nhiều chính sách an sinh xã hội, chăm sóc nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội và đồng bào tại mọi miền Tổ quốc. Ðảng, Nhà nước, Chính phủ cùng các tổ chức, cá nhân đã cùng nhau tương trợ, giúp đỡ thực hiện mệnh lệnh của trái tim là "không để ai bị bỏ lại phía sau", song tổ chức khủng bố này liên tục kêu gào "tẩy chay vaccine", bịa đặt, vu khống, vu cáo, đổi trắng thay đen, tung tin giả, tuyên truyền trên các trang mạng xã hội gây chia rẽ, mâu thuẫn vùng miền. Thử hỏi: Với các hành vi bất lương đó, "Việt tân" có tư cách gì để bàn về công việc phòng, chống COVID-19 ở Việt Nam. Chưa kể, với thái độ thù địch của "Việt tân", có thể khẳng định dù người được trao "giải thưởng" là ai thì chắc chắn đó vẫn phải là người được "Việt tân" o bế, có nhiều "thành tích" chống phá Việt Nam.


Với "Mạng lưới nhân quyền Việt Nam", dư luận đều biết rõ đây là một tổ chức thành lập tại Mỹ năm 1997, có quan hệ mật thiết với một số tổ chức phản động của người Việt ở nước ngoài như "Tập hợp Thanh niên dân chủ", "Ủy ban tự do tôn giáo cho Việt Nam" hoặc thường xuyên móc nối với một số tổ chức quốc tế đội lốt "dân chủ, nhân quyền" như Ân xá quốc tế, Theo dõi nhân quyền, Nhà báo không biên giới, Ủy ban bảo vệ nhà báo để đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, tổ chức chống phá chế độ.


Vì thế "giải thưởng nhân quyền" của "Mạng lưới nhân quyền Việt Nam" thực chất là để đề cao một số đối tượng đang bị tạm giam, tạm giữ, chịu án phạt tù, hoặc có hoạt động xuyên tạc trên các trang mạng xã hội bị dư luận phản đối. Chẳng hạn, năm 2019, tổ chức phản động này đã "trao giải" cho Nguyễn Ðặng Minh Mẫn, Nguyễn Trung Tôn, Lê Công Ðịnh. Ðiều nực cười là vào thời điểm "trao giải" thì số đối tượng này đang chịu án phạt tù tại Việt Nam về các tội "tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam", "Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân". Tiếp đó, năm 2020, tổ chức này "trao giải" cho Nguyễn Văn Hóa, kẻ đang thụ án tù 7 năm cũng về tội "Tuyên truyền chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" theo khoản 1, Ðiều 88, Bộ luật Hình sự 1999 do TAND tỉnh Hà Tĩnh tuyên vào năm 2017; và Nguyễn Năng Tĩnh cũng đang thụ án tù 11 năm vì tội "Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu nhằm chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam" theo Ðiều 117 Bộ luật Hình sự 2015. Năm 2021, "Mạng lưới nhân quyền Việt Nam" loan báo "trao giải" cho Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Phương, Trịnh Bá Tư, Ðinh Thị Thu Thủy, Nguyễn Văn Túc. Trong đó Nguyễn Văn Túc đang chấp hành án tù về tội "Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân"; Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư, Ðinh Thị Thu Thủy đang chấp hành án tù về tội "Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam" theo Ðiều 117 Bộ luật Hình sự 2015. Trịnh Bá Phương cũng đã bị Cơ quan An ninh điều tra Công an TP Hà Nội tiến hành khởi tố bị can, thi hành lệnh bắt bị can để tạm giam với tội danh tương tự, hiện đã kết thúc điều tra, đang chờ ngày xét xử. Nguyễn Văn Túc, thành viên của "Hội anh em dân chủ" cũng bị TAND tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm, sau đó phúc thẩm tại TAND cấp cao thành phố Hà Nội vẫn y án 13 năm tù giam và 5 năm quản chế về tội "Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân" theo khoản 1 Ðiều 79 Bộ luật Hình sự 1999.


Thực tế trên cho thấy cái gọi là "giải thưởng nhân quyền" được các tổ chức, hội nhóm vốn có thái độ thù địch hoặc thiếu thiện chí với Việt Nam quảng bá rùm beng lâu nay thực chất chỉ để quảng bá tên tuổi một số kẻ đã lợi dụng quyền tự do, dân chủ nhằm xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam, vu cáo chính quyền, kích động quần chúng nhân dân, gây bất ổn xã hội, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, chia rẽ người ở trong nước với ngoài nước… Nếu người dân không tỉnh táo có thể mắc bẫy của các tổ chức phản động này. Ðồng thời từ đây cũng cho thấy các tổ chức, hội nhóm trao cái gọi là "giải thưởng nhân quyền" luôn tìm cách lợi dụng vấn đề nhân quyền qua việc cố tình hiểu sai lệch, phiến diện, cố tình không tuân thủ những giá trị phổ quát về quyền con người đã được Liên hợp quốc khẳng định. Nói cách khác, các tổ chức, hội nhóm đó đã khoác cái áo gắn dòng chữ "dân chủ, nhân quyền" để thực hiện những mưu đồ đen tối, tạo cớ để can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia không đi theo ý muốn của thế lực đang đứng sau họ giật dây. Ðó là chưa kể đến động cơ mờ ám của hành vi "trao giải" các "giải thưởng nhân quyền" trên đã khiến dư luận lâu nay vẫn râm ran rằng việc "xướng tên" còn nhằm mục đích để tạo cớ xin tiền tài trợ, quyên góp từ các nhóm chống cộng ở nước ngoài, hoặc một số cá nhân nhẹ dạ, cả tin, thiếu thông tin bị lừa dối, lợi dụng, dẫn dắt đi theo. Ðiều này là hoàn toàn có cơ sở bởi chính Trần Văn Liễu, người được Hoàng Cơ Minh - kẻ lập ra tổ chức khủng bố "Việt tân", phong là "Tổng trưởng Tổng cục Hải ngoại" từng công khai chỉ trích Hoàng Cơ Minh và đồng bọn chỉ là "bọn tống tiền", "bọn buôn kháng chiến", "bọn lừa đảo kiều bào rời đất nước sau năm 1975" để móc túi moi đô-la và vàng...


Cho nên bản chất của hàng loạt cái gọi "giải thưởng nhân quyền" nói trên là phản nhân quyền, trực tiếp xúc phạm nghiêm trọng đến những giá trị nhân quyền đã được khẳng định trong nhiều văn kiện của Liên hợp quốc, được các quốc gia trên thế giới thống nhất, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện. Hiến pháp (2013) nước CHXHCN Việt Nam quy định cụ thể các giá trị, yêu cầu này qua Ðiều 14: "1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng"; và khoản 4 Ðiều 15: "Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác". Việc yêu cầu thực thi quyền con người, quyền công dân đặt trong khuôn khổ pháp luật là những nguyên tắc bảo đảm nhân quyền luôn được tôn trọng và thực thi trong mọi xã hội dân chủ, văn minh. Thế nhưng với các tổ chức như khủng bố "Việt tân", "Theo dõi nhân quyền", "Mạng lưới nhân quyền Việt Nam", "Phóng viên không biên giới",… những giá trị nêu trên chưa bao giờ được nhìn nhận nghiêm túc vì với họ, "dân chủ, nhân quyền" chỉ là vỏ bọc, là nhãn mác được dùng để khoác lên nhằm che đậy các hoạt động chống phá chế độ, chống phá Ðảng, Nhà nước Việt Nam./.


SỰ KIÊN QUYẾT TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC Ở VIỆT NAM

 



Vừa qua, lợi dụng việc một số cán bộ, đảng viên có sai phạm bị xử lý kỷ luật, trong bài: “Bác sĩ ‘đánh rơi’ y đức vì thể chế?” đăng trên Rfavietnam đã cố tình xuyên tạc về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nhằm phủ nhận sự quyết tâm, kiên quyết xử lý tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Chính phủ Việt Nam. Hơn ai hết, khi đưa ra những nội dung trên, các đối tượng chống đối cần phải hiểu rõ là:


Thứ nhất, lãnh đạo Đảng, Nhà nước không dung túng, bao che cho cán bộ, đảng viên đã nhúng chàm dù ở cương vị nào! Nhận thức rõ tầm quan trọng và những ảnh hưởng to lớn trực tiếp của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đối với toàn xã hội, Đảng, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện tốt công tác này. Quốc hội chú trọng sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật kịp thời hoàn thiện cơ chế bảo đảm đồng bộ, thống nhất giữa chủ trương của Đảng với chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chính phủ đã ban hành nhiều giải pháp nhằm khắc phục các kẽ hở ở các lĩnh vực, hoạt động dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực, như: công tác cán bộ, tài chính, ngân sách, tài sản công, đất đai, tài nguyên, thanh tra, kiểm toán. Đồng thời, công tác tổng kết, rút kinh nghiệm về phòng, chống tham nhũng được tiến hành như: Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng; Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng, giai đoạn 2013-2020… thể hiện quyết tâm kiềm chế, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng.


Điều đó còn được thể hiện ở tư tưởng, quan điểm “Nói đi đôi với làm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, không chịu sức ép của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào” và kết luận chỉ đạo quyết liệt trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tại Việt Nam. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc, tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2013-2020: “vì sự nghiệp chung, vì sự nghiêm minh kỷ luật của Đảng, thượng tôn pháp luật của Nhà nước, sự trong sạch, vững mạnh và uy tín của Đảng, Nhà nước và ý nguyện của nhân dân, chúng ta phải làm, và kiên quyết làm. Kỷ luật một vài người để cứu muôn người, và sẽ còn phải tiếp tục làm quyết liệt, mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới”. Mới đây, ngày 13/09/2021 tại Hội nghị trực tuyến về công tác phòng, chống dịch Covid-19, Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng chỉ đạo: “phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, nhất là trong mua sắm trang thiết bị, sinh phẩm y tế, thuốc chữa bệnh, vật tư … trong phòng, chống dịch Covid-19”.


Thứ hai, các vụ việc được phát hiện và xử lý kỷ luật kịp thời, nghiêm minh càng minh chứng cho thái độ kiên quyết xử lý tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Chính phủ Việt Nam. Điều này thể hiện tinh thần thượng tôn pháp luật, “không có vùng cấm”, không bỏ lọt tội phạm, dù là ai ở cương vị cao tới đâu, chuyên môn giỏi cỡ nào nhưng nếu đã vi phạm kỷ luật, tham nhũng, tiêu cực thì đều bị xử lý theo pháp luật. Cũng như các đối tượng dẫn chứng trường hợp bác sĩ Nguyễn Quang Tuấn, Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai – bàn tay vàng mổ tim là người có chuyên môn rất giỏi, rất cần cho việc chăm sóc sức khỏe nhân dân nhưng vi phạm vẫn bị khởi tố điều tra hoặc như Tiến sĩ Y khoa Nguyễn Thị Kim Tiến từng là Trưởng ban Bảo vệ Chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương, Bộ trưởng Bộ Y tế, Viện trưởng Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh đã bị kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo và miễn nhiệm chức vụ do những vi phạm trong thời gian tại chức, mặc dù bà có rất nhiều đóng góp, cống hiến trên các cương vị công tác được giao. Ngoài ra, cũng còn có những cán bộ, đảng viên vi phạm và bị xử lý kỷ luật đã được báo chí, phương tiện thông tin đăng tải công khai trong thời gian vừa qua.


Sự kiên quyết trong công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam là minh chứng chân thực nhất phản bác luận điệu phản động xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam của các đối tượng chống đối. Mỗi người dân Việt Nam cần nêu cao cảnh giác, đấu tranh vạch trần mọi thủ đoạn, âm mưu đưa tin xuyên tạc sự thật của các thế lực phản động trên các trang mạng xã hội, ./.


KHAI MẠC HỘI NGHỊ CÔNG AN TOÀN QUỐC LẦN THỨ 77

 


Sáng nay 27/12, tại Hà Nội, Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an đã khai mạc trọng thể Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 77 để tổng kết tình hình, kết quả các mặt công tác Công an năm 2021; quán triệt và triển khai các chủ trương, giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ công tác của lực lượng Công an trong năm 2022 và những năm tiếp theo; tổng kết phong trào thi đua “Vì an ninh Tổ quốc” năm 2021.

Hội nghị vinh dự được đón Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đến dự và chỉ đạo. Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì hội nghị.

 Phát biểu khai mạc hội nghị, Bộ trưởng Tô Lâm nêu rõ, Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 77 được tổ chức nhằm đánh giá tình hình, kết quả các mặt công tác Công an và tổng kết phong trào thi đua năm 2021, đánh giá kết quả năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Công an Trung ương lần thứ VII, nhiệm kỳ 2020 - 2025 trong CAND; đồng thời, sơ kết một năm thực hiện Nghị quyết 51 ngày 5/9/2019 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 22 của Bộ Chính trị và Nghị định số 01 ngày 6/8/2018 của Chính phủ; quán triệt và phổ biến các nội dung cơ bản của Đề án về "Đẩy mạnh xây dựng lực lượng CAND thực sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới"; triển khai nhiệm vụ công tác bảo vệ ANTT và phát động phong trào thi đua "Vì an ninh Tổ quốc" năm 2022 trong toàn lực lượng CAND.



Chủ Nhật, 26 tháng 12, 2021

CHĂM LO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

 


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Ở đời và làm người phải thương nước, thương dân, thương nhân loại bị áp bức đau khổ”(1) và Người không chỉ cống hiến trọn đời cho độc lập dân tộc, tự do, ấm no và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam mà còn góp sức vào sự nghiệp giải phóng nhân loại bị áp bức, bất công trên toàn thế giới. Người để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá, đó là tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trong đó, tư tưởng về chăm lo đời sống nhân dân vẫn giữ nguyên giá trị, soi đường cho cách mạng Việt Nam vững bước trên con đường đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống nhân dân


Trả lời phỏng vấn nhà báo nước ngoài ngày 21-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(2). Chăm lo đời sống nhân dân, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính là làm cho nhân dân được thực hiện nghĩa vụ và hưởng thụ quyền lợi trong một xã hội tiến bộ và công bằng, với hành lang pháp lý đầy đủ và ngày càng hoàn thiện, để nhân dân thực sự là người chủ trong xã hội mới và ngày càng được thụ hưởng đầy đủ về vật chất và tinh thần.


Ngay từ khi Đảng vừa ra đời, trong Chương trình tóm tắt của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác. Khi đất nước vừa giành được độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người cùng Chính phủ xác định rõ những nhiệm vụ cấp bách cần tập trung giải quyết, trong đó việc chống nạn đói, nạn dốt và xóa các tệ nạn xã hội; bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò; thực hiện quyền tự do, dân chủ,... là những nội dung, biện pháp và bước đi quan trọng để từng bước chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Người đề nghị Chính phủ lâm thời phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm để cứu đói. Trong thư Gửi nông gia Việt Nam, Người khẩn thiết kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa... Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”(3). Để cứu đói dân nghèo trước khi thu hoạch vụ mùa, Người kêu gọi sẻ cơm nhường áo trên tinh thần “lá lành đùm lá rách” và gương mẫu thực hiện trước, “cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa, mỗi bữa nhịn một bơ”. Và đem gạo đó để cứu dân nghèo. Sau một thời gian ngắn phát động, nhân dân cả nước đã quyên góp được một lượng lớn lương thực và nạn đói sớm được khắc phục.


Ngay từ những ngày đầu đất nước mới giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện quan điểm nhất quán là Chính phủ phải quan tâm đến đời sống của nhân dân. Vì thế, trong cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Người nhấn mạnh, chúng ta phải thực hiện ngay 4 điều: Làm cho dân có ăn; làm cho dân có mặc; làm cho dân có chỗ ở; làm cho dân có học hành. Bởi, theo Người, dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc ấm.


Khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương của tiền tuyến lớn miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, chăm lo đời sống, hạnh phúc của nhân dân là một trong những mục tiêu quan trọng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Nhà nước ta hướng tới. Người cho rằng: “Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: Chủ nghĩa xã hội không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”(4). Người diễn giải mục đích tổng quát này thành các tiêu chí cụ thể: Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ… Xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt. Chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa thì quyền lợi cá nhân, quyền lợi Nhà nước và quyền lợi tập thể mới thống nhất. Vì vậy, muốn nâng cao đời sống nhân dân, đem lại cho nhân dân cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc không có con đường nào khác là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội.


Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để chă­m lo tốt cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, trước hết phải xây dựng nhà nước thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính phủ phải là công bộc của dân. Công việc của Chính phủ phải nhằm một mục đích duy nhất là đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Người nói: “Chính sách của Ðảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Ðảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Ðảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Ðảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Ðảng và Chính phủ có lỗi”(5). Vì vậy, cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân, phải đặt quyền lợi của nhân dân lên trên hết. Phải lãnh đạo, tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và tiết kiệm. Dân đủ ăn, đủ mặc thì những chính sách của Đảng và Chính phủ đưa ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, bệnh tật thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn khẳng định trách nhiệm của Đảng, Chính phủ là bảo đảm tự do, hạnh phúc cho nhân dân, bởi “Nếu nước nhà độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.


Trên tinh thần các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ “hứa với dân, sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc”. Trong việc kiến thiết nước nhà, sửa sang mọi việc, phải làm dần dần, không thể một tháng, một năm mà làm được hết. “Song ngay từ bước đầu, chúng ta phải theo đúng phương châm... Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(6). Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, xác định công việc cụ thể, bước đi thích hợp để chăm lo đời sống nhân dân, góp phần từng bước đẩy lùi nạn đói và mang lại quyền lợi dân chủ cho nhân dân, trước hết là nông dân.


Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, xây dựng và phát triển đất nước sau kết thúc chiến tranh luôn là một nhiệm vụ to lớn, nặng nề và phức tạp mà cũng rất vẻ vang. Đó là một cuộc “chiến đấu”, đầy khó khăn để chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng; để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Ðể giành lấy thắng lợi trong cuộc “chiến đấu” ấy, Đảng và Chính phủ không chỉ cần tiến hành “khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế”; “phát triển công tác vệ sinh, y tế”; “sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân”; “củng cố quốc phòng”,... mà còn phải động viên toàn dân, tổ chức, giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân và tạo điều kiện cho nhân dân tự xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc của mình.


Hàm chứa triết lý phát triển bền vững, Chủ tịch Hồ Chí Minh dặn lại trong bản Di chúc lịch sử: “NHÂN DÂN LAO ĐỘNG ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh.


Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.


Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(7). Vì “đầu tiên là công việc đối với con người”, nên Người căn dặn phải chăm lo cho các đối tượng “cán bộ, binh sĩ, dân quân du kích, thanh niên xung phong” để họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mọi người; quan tâm đến “cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu”, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét; có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc lãnh đạo. Cùng với đó, Nhà nước và các cấp chính quyền phải vừa dùng giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo và giúp “những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu... trở nên những người lao động lương thiện”; miễn thuế nông nghiệp một năm cho nông dân để đồng bào thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất… Những điều Người dặn, những quyết sách mà Người cùng Đảng và Chính phủ nỗ lực thực hiện đã góp phần chăm lo đời sống nhân dân, thể hiện chiều sâu tư tưởng nhân văn của chế độ xã hội chủ nghĩa./.



SUY NGẪM VỀ 'VĂN HÓA NGOẠI GIAO VIỆT NAM'

 

"Tiếp nối Hội nghị toàn quốc về văn hóa, Hội nghị toàn quốc triển khai công tác đối ngoại theo tinh thần nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng họp, trong tôi bỗng nẩy sinh đôi điều suy tư về “văn hóa ngoại giao” với cái nghĩa là minh triết ứng xử của người Việt trong mối bang giao với thiên hạ. 


Vả lại, “ngoại giao” vốn được coi là “khoa học và nghệ thuật điều hành quan hệ quốc tế” nên bản thân nó đã mang trong mình nội hàm văn hóa.


Qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã vun đắp nên nhiều giá trị văn hiến độc đáo, trong đó có văn hóa ngoại giao đặc sắc. 


Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao là sự kết tinh và phát triển những giá trị vô giá được tích tụ qua các thời đại Lý, Trần, Lê, Tây Sơn… huy hoàng. 


Không phải ngẫu nhiên UNESCO từng vinh danh Bác Hồ của chúng ta chẳng những là “anh hùng giải phóng dân tộc” mà còn là “nhà văn hóa kiệt xuất”!


Nội hàm “văn hóa ngoại giao” rất rộng; ở đây chỉ xin mạo muội chia sẻ về bốn cụm đặc trưng nổi bật; đó là: kiên định trong mục tiêu, nhân văn trong cốt cách, rộng mở trong tinh thần và linh hoạt trong hành động.


Trên thế giới hiếm có dân tộc nào như dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử phải đổ biết bao xương máu để gìn giữ giang sơn trước các cuộc xâm lăng của các thế lực ngoại xâm mạnh hơn gấp bội. Hận mất nước đã góp phần hun đúc thêm lòng yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường sắt đá bảo vệ cho được quyền độc lập của dân tộc, chủ quyền của quốc gia.  


Ý chí ấy của dân tộc đã được khẳng định mạnh mẽ trong Tuyên ngôn độc lập mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên đọc vào 76 năm trước:


 “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.


Gắn liền với ý chí sắt đá bảo vệ độc lập của nước nhà, quyền tự do của nhân dân, văn hóa ngoại giao Việt Nam luôn hàm chứa tinh thần hoà hiếu: Việt Nam muốn “làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không gây thù oán với ai” như Bác Hồ từng khẳng định. Thể hiện tinh thần hòa hiếu ấy, Người đã từng tiến hành hoạt động ngoại giao sôi động nhằm cứu vãn hòa bình thể hiện trong Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, tiếp đó là Tạm ước 14/9 được ký trong chuyến thăm chính thức nước Pháp trong 5 tháng trời nhằm tranh thủ thêm thời gian chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược không thể tránh khỏi.


Tinh thần nhân văn là một đặc điểm vốn có nữa trong cốt cách của văn hóa ngoại giao Việt Nam. Trong khi nêu cao tinh thần tự tôn dân tộc, người Việt Nam không bao giờ nuôi hận thù dân tộc, trái lại luôn phân biệt rạch ròi giữa các tầng lớp nhân dân với các thế lực hiếu chiến; sau khi kết thúc chiến tranh luôn bầy tỏ thiện chí “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”. 


Cốt cách ấy có sức mạnh thu phục lòng người rất mạnh, kể cả những người đã từng bị lôi cuốn vào các cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Làm ngoại giao, cá nhân tôi đã từng có nhiều dịp tiếp xúc với họ, trong đó có những người sau này giữ cương vị cao trong chính quyền và giới kinh doanh các nước đó.


Tự hào về nền văn hiến lâu đời và giầu bản sắc của dân tộc mình, người Việt Nam chúng ta không bao giờ khép kín mà luôn mở lòng tiếp nhận tinh hoa văn hóa của cả phương Đông lẫn phương Tây; nhậy bén nắm bắt các xu thế tiến bộ lớn của thời đại; trong thương thuyết luôn kiên định bảo vệ lẽ phải nhưng không ngạo mạn; trong giao tiếp luôn cởi mở nhưng không xuồng xã; trong ứng xử luôn khiêm nhường nhưng không quỵ lụy; khi đãi đằng khách quý luôn chu đáo nhưng không gò bó…


Đối với văn minh nhân loại, ngay từ năm 1919 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường”[1]. Một minh chứng khác về tinh thần cởi mở của Người là tháng 12 năm 1946, trên ngưỡng cửa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác đã gửi cho Liên Hợp Quốc bức thư bầy tỏ: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực” kèm theo những hình thức hợp tác rất rộng mở mà ngày nay, trong thời kỳ hội nhập quốc tế mới thực hiện được.


Trong quá trình đấu tranh cách mạng nói chung và đấu tranh ngoại giao nói riêng đã hình thành nên cả một hệ thống phương cách hành động đa dạng về loại hình, tinh tế về tính chất, hiệu quả về tác dụng thể hiện rất rõ đặc sắc văn hóa Việt Nam.


Về mối quan hệ giữa thực lực và ngoại giao, Bác Hồ từng nhấn mạnh: “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”. Điều đó không có nghĩa là ngoại giao đóng vai trò thụ động; trái lại thành công của ngoại giao về phần mình đã đóng góp thiết thực và to lớn vào việc củng cố thực lực.


Khi nói tới “thực lực” có lẽ nên hiểu là sự tổng hòa cả “sức mạnh cứng” lẫn “sức mạnh mềm” thể hiện trong tinh hoa văn hóa dân tộc, ý chí kiên cường và tinh thần đoàn kết của toàn dân; tính chính nghĩa của sự nghiệp; tính đúng đắn của đường lối và sự sắc bén trong lãnh đạo, điều hành.


Những cách tiếp cận “cương – nhu” tùy từng vấn đề, từng thời điểm và từng đối tác; “nguyên tắc của ta thì vững chắc nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”, “Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ, Kiên quyết không ngừng thế tiến công, Lạc nước hai xe đành bỏ phí, Gặp thời một tốt cũng thành công” như Bác Hồ dặn đều là những nét đặc trưng của ngoại giao Việt Nam.


Đặt sự nghiệp dân tộc trong dòng chảy của thời đại, ngoại giao Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế” qua đó gia tăng gấp bội thực lực bản thân.


Được vận dụng nhuần nhuyễn trong công cuộc cách mạng nói chung, hoạt động ngoại giao nói riêng, những triết lý trên đã góp phần cực kỳ quan trọng vào những thắng lợi to lớn của nhân dân ta suốt 76 năm qua.


Có thể nói, văn hóa ngoại giao do các thế hệ ông cha ta và Bác Hồ để lại là “báu vật quốc gia” về nền văn minh đất Việt.


Việc vận dụng nhuần nhuyễn những giá trị văn hóa ngoại giao không chỉ là công việc của các nhà ngoại giao chuyên nghiệp mà còn là yêu cầu không thể thiếu đối với mọi ngành, mọi cấp, thậm chí cả đối với mỗi người dân trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu rộng chưa từng thấy với thế giới bên ngoài. Thiết nghĩ, khi tiếp xúc với bạn bè gần xa ở trong nước cũng như khi đi ra nước ngoài, mỗi người chúng ta đều cần phải trở thành những vị “đại sứ” chuyển tải tinh hoa văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa ngoại giao Việt Nam nói riêng tới cộng đồng quốc tế. Tiếc rằng, trong cách ứng xử với bên ngoài có những người chẳng những không “khoe” được cái đẹp mà còn lộ ra những nét chưa đẹp, chưa hay. Nếu không gột sạch những vết mờ ấy thì văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa ngoại giao Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng.


Vận dụng ý tưởng của Bác Hồ: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, chúng ta tin rằng, văn hóa ngoại giao sẽ soi đường cho ngoại giao Việt Nam không ngừng tiến bước, góp phần to lớn hơn nữa vào công cuộc hiện đại hóa đất nước, đưa Việt Nam lên đài quang vinh, sánh vai cùng bè bạn năm châu như Bác Hồ hằng mong ước".

Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan

Thứ Bảy, 25 tháng 12, 2021

4 BẢN ÁN VÀ CÂU CHUYỆN HÌNH MẪU NGƯỢC VỀ NHÂN QUYỀN

 


Những ngày vừa qua, giới “dân chủ” liên tiếp tung ra những thông tin, bài viết, luận điệu sai trái nhằm tẩy trắng cho Phạm Đoan Trang, Đỗ Nam Trung, Trịnh Bá Phương và Nguyễn Thị Tâm. Chúng ca ngợi, cổ vũ, tung hô những đối tượng này như những tấm gương, hình mẫu về đấu tranh cho “dân chủ”, “nhân quyền”. Vậy nhưng thực tế, đó là những “hình mẫu ngược” cần phải loại bỏ.


Trong tuần vừa qua, hàng loạt đối tượng “dân chủ” cộm cán, “thủ lĩnh” chống phá trong nước đã bị đưa ra xét xử và tuyên án. Như thường lệ, các “tay viết dân chủ”, “nhà đấu tranh vì dân chủ”, “nhà quan sát dân chủ” trong và ngoài nước lại nhao nhao tiến hành xuyên tạc.


Phạm Minh Vũ, cũng nhanh chóng bắt sóng, tung ra nhiều thông tin sai trái, lệch lạc trên mạng xã hội. Phạm Minh Vũ rêu rao những luận điệu không đúng sự thật, xuyên tạc như: “nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã tuyên những bản án vô cùng tàn bạo đối với những người, mà theo quan điểm cá nhân của tôi cho rằng họ là tầng lớp tinh hoa của đất nước”, “họ lên tiếng không chỉ cho cá nhân họ mà bảo vệ quyền con người, mong muốn Việt Nam có Dân chủ và tự do”, “với đất nước này, Dân tộc này họ hoàn toàn vô tội”…


Trước hết, phải nói thẳng, Phạm Đoan Trang, Đỗ Nam Trung, Trịnh Bá Phương và Nguyễn Thị Tâm rõ ràng không phải là “tinh hoa của dân tộc” như những gì được Phạm Minh Vũ rêu rao. Đây là những đối tượng trực tiếp xâm phạm đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Đó là điều không thể bao biện, chối cãi. Toàn bộ hành vi phạm tội của những đối tượng này đã được các cơ quan tố tụng thu thập đầy đủ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Việc xét xử và tuyên án là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.


Nếu gọi những đối tượng bị kết án là “tinh hoa của đất nước” thì xin hỏi, có “giới tinh hoa” nào của đất nước lại móc nối, câu kết, nhận sự giúp đỡ từ các các nhân, tổ chức phản động để chống phá đất nước? Xin hỏi, có thứ “tinh hoa nào” chỉ nhìn nhận vào một số hạn chế, sai phạm để thổi phồng, quy chụp thành bản chất của đất nước, kêu gọi sự can thiệp của các thế lực bên ngoài vào công việc nội bộ của quốc gia, dân tộc mình? Xin hỏi, có thứ “tinh hoa” nào khi sống ở Việt Nam, ăn cơm Việt Nam nhưng ngày ngày chửi rủa chống phá đất nước, kích động gây rối an ninh?


Hành vi của Phạm Đoan Trang, Đỗ Nam Trung, Trịnh Bá Phương, Nguyễn Thị Tâm không phải là vì “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” hay lợi ích chung của cộng đồng. Những gì các đối tượng này thực hiện là để thoả mãn các lợi ích cá nhân. Nhìn lại toàn bộ quá trình hoạt động của họ có thể thấy họ không đại diện cho cộng đồng. Thực tế, họ đang kiếm sống bằng nghề “dân oan”, “dân chủ”. Bởi vậy, họ luôn lợi dụng những vấn đề được dư luận quan tâm để tiến hành quấy phá, “thêm dầu vào lửa”, công kích tư tưởng mâu thuẫn, mất đoàn kết trong cộng đồng. Song song với đó, là móc nối, nhận sự giúp sức, hỗ trợ từ các thế lực bên ngoài. Kết quả, những kẻ này được không ít tờ báo nước ngoài có cái nhìn thiếu thiện cảm với Việt Nam ca ngợi là các “anh hùng dân chủ”, thường xuyên tiến hành phỏng vấn. Mặt khác, những “giải thưởng nhân quyền” cũng dần gọi tên và đi kèm với đó là các “khoản đầu tư” về vật chất không hề nhỏ.


Tại Việt Nam, các giá trị dân chủ, nhân quyền luôn được Nhà nước tôn trọng và bảo đảm. Người dân Việt Nam là những người hiểu rõ nhất tính dân chủ, nhân quyền trong xã hội mình. Nếu Việt Nam đầy rẫy bất công, chỉ toàn tiêu cực như những gì các “nhà bình loạn” đang rêu rao thì chắc chắn đã lâm vào cảnh hỗn loạn, không thể có được nền hoà bình, ổn định như hiện nay. Vì vậy, hãy nhưng ngay chiêu trò xuyên tạc tình hình thực tiễn, vu khống Việt Nam trên vấn đề dân chủ, nhân quyền.


Suy cho cùng, “dân chủ” cũng chỉ là một nghề bạc bẽo. Tấm gương của các “nhà dân chủ” như Trần Thị Nga, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Bạch Hồng Quyền… vẫn còn trước mắt. Một khi quay lưng với quốc gia, dân tộc mình thì sớm muộn cũng sẽ nhận phải những trái đắng.

VÀO MỘT NGÀY NÀO ĐÓ, HỌ SẼ TẠM BIỆT CHÚNG TA NHƯNG NHỮNG GÌ HỌ LÀM LUÔN LÀ BẤT DIỆT



Một tờ báo của Nga nói về cuộc diễu binh Ngày Chiến Thắng: “Có một điều mà chúng ta phải đối diện, đó là việc những cựu binh vĩ đại ngày xưa sẽ xuất hiện thưa dần tại Quảng trường Đỏ, rồi có một ngày, sẽ không còn ai nữa. Có người sẽ hỏi rằng, những chiến công và những anh hùng có tồn tại thật không”.


Tổng thống Vladimir Putin cho biết, hàng năm, đều có hàng ngàn, hàng trăm ngàn người mang theo di ảnh của người thân tham gia cuộc diễu hành.


“Chúng tôi sẽ không bao giờ lãng quên và tôi tin rằng họ - người thân, thế hệ sau của những anh hùng, cũng sẽ nghĩ như vậy”.


Có một điều hiển nhiên thế này, chúng ta càng phát triển hơn, càng hiện đại hơn, thì những anh hùng sẽ dần tạm biệt chúng ta. Mỗi năm, chúng ta đều phải nói lời tạm biệt mà trong thâm tâm không bao giờ muốn. Có một bác cựu chiến binh từng tham gia chống Mỹ và chiến dịch Tây Nam, chia sẻ bài đăng về lễ kỉ niệm 110 năm ngày sinh của tướng Giáp cùng ngày Thành lập QĐND Việt Nam của Thông tin Chính phủ với dòng viết: “Cứ mỗi lần hội họp, lại thấy ít dần. Đồng đội!”.


Có một bác cựu chiến binh già, cầm đàn guitar hát cho đồng đội đang nằm trong nấm mộ nghe. Có một bác khác, cầm theo di ảnh của một người bạn thân tham gia một buổi lễ, đôi chân không lành lặn do vướng mảnh bom mìn. Có một bác cứ sáng sớm là đi lại quan làng, bác nói là do vẫn còn ám ảnh tiếng hành quân vào mỗi sáng sớm.


Không có chiến tranh, không có anh hùng. Không có anh hùng thì không có chiến thắng. Nhưng mỗi một chiến thắng lại có nhiều anh hùng ngã xuống hoặc bị thương, đó là một cái giá đắt và chúng ta phải luôn nhớ cũng như không được phép lãng quên.


Trên trang Cơ quan lưu trữ quốc gia Hoa Kỳ đăng tải thông tin về sự kiện Homecoming - sự kiện trao trả 600 phi công, lính Mỹ trước khi Mỹ rút quân toàn bộ khỏi miền Nam Việt Nam, có bình luận: “Tướng Giáp giỏi hơn những gì mà chúng tôi có. Họ có thứ niềm tin mà chúng tôi không có được. Chúng tôi áp đảo về hỏa lực, công nghệ năm này qua năm khác, họ vẫn đáng bại chúng tôi. Làm sao mà chúng tôi có thể đánh bại họ trong 4 năm mà thua Việt Nam trong 20 năm? Bởi vì chúng tôi không thể đe dọa được họ”.


Họ là những người anh hùng không bị khuất phục trước bom đạn của chiến tranh. Nhưng họ không thể chống lại được thời gian. Với thế hệ chúng ta và sau này, việc ghi nhớ và chống lãng quên là một nhiệm vụ bắt buộc.

Thứ Sáu, 24 tháng 12, 2021

TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH "MẸ ĐỠ ĐẦU" TRONG CƠ QUAN TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ

 



Cục Chính trị, Tổng cục Chính trị vừa có văn bản hướng dẫn triển khai Chương trình “Mẹ đỡ đầu” hỗ trợ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mồ côi do tác động của dịch Covid-19 trong Cơ quan Tổng cục Chính trị.


Hướng dẫn nêu rõ, Chương trình “Mẹ đỡ đầu” tạo điều kiện để trẻ mồ côi do tác động của dịch Covid-19 được hỗ trợ, chăm sóc, nuôi dưỡng và phát triển toàn diện trong môi trường sống an toàn, lành mạnh của gia đình và cộng đồng, được bảo đảm đầy đủ các quyền trẻ em theo quy định của pháp luật.


Do đó, các cơ quan, đơn vị đẩy mạnh tuyên truyền rộng rãi mục đích, ý nghĩa của chương trình đến toàn thể cán bộ, nhân viên, chiến sĩ và hội viên phụ nữ trong cơ quan, đơn vị. Đối tượng là trẻ mồ côi do tác động của dịch Covid-19 (mồ côi cả cha và mẹ; mồ côi cha hoặc mẹ, không nơi nương tựa hoặc có người nuôi dưỡng thuộc hộ nghèo, gia đình khó khăn...). 


Từng cơ quan, đơn vị căn cứ vào nguồn kinh phí và điều kiện thực tế để quyết định hình thức, số lượng nhận đỡ đầu, hỗ trợ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mồ côi như: Tặng sổ tiết kiệm, trao học bổng, thăm, tặng quà; trực tiếp nhận đỡ đầu, chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mồ côi hoặc hỗ trợ nguồn lực cho trẻ mồ côi thông qua gia đình, người nuôi dưỡng.


Cục Chính trị Tổng cục Chính trị yêu cầu tổ chức phụ nữ các cơ quan, đơn vị chủ động nghiên cứu, đề xuất, báo cáo cấp ủy, chỉ huy cơ quan, đơn vị về chủ trương, đối tượng đỡ đầu, hỗ trợ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mồ côi; lựa chọn hình thức phù hợp, kế hoạch triển khai và hoàn thành báo cáo kế hoạch, đăng ký số lượng nhận hỗ trợ, hình thức hỗ trợ trước ngày 10-3-2022./.

NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM- THÀNH TỰU KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN

 


Hiện nay vấn đề nhân quyền đang được các thế lực thù địch, phản động lợi dụng như một thứ vũ khí để chống phá chế độ, chúng thường xuyên đưa ra các luận điệu xuyên tạc, bóp méo, phản ánh không đúng về tình hình nhân quyền tại Việt Nam trên các trang mạng xã hội. Tuy nhiên, những luận điệu mà chúng đưa ra không thể phủ nhận được sự thật là ở Việt Nam quyền con người đang được tôn trọng, phát huy hơn bao giờ hết.


Hiến pháp năm 2013 của Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã tiếp tục khẳng định sự nhất quán về quyền con người, quyền công dân được quy định trong các bản Hiến pháp trước đây; đồng thời bổ sung nhận thức mới, đầy đủ, sâu sắc hơn trong việc thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, phù hợp với tình hình mới của đất nước và bối cảnh quốc tế hiện nay để từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.


Trên thực tế, Việt Nam là một trong 6 quốc gia thành viên Liên hợp quốc đã hoàn thành phần lớn các mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ trước thời hạn; được Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực thế giới trao giải thưởng thành tích xuất sắc trong xóa đói, giảm nghèo. Hai năm qua, dù phát triển kinh tế không đạt mục tiêu đề ra do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, song các quyền cơ bản của người dân vẫn luôn được đảm bảo. Chỉ số phát triển con người (HDI) ở Việt Nam đã tăng 45,8% trong giai đoạn 1990 - 2019, đưa Việt Nam nằm trong danh sách các nước có tốc độ tăng HDI cao nhất trên thế giới. Theo báo cáo Chỉ số hạnh phúc của Liên hợp quốc, năm 2020, Việt Nam đứng thứ 83/156 quốc gia và vùng lãnh thổ, tăng 11 bậc so với năm 2019. Với những thành tựu đã đạt được trong việc bảo đảm nhân quyền, Việt Nam đã được Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đề cử tham gia ứng cử vị trí thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025.


Đảng và Nhà nước ta đang tiếp tục thực hiện đường lối đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đưa đất nước vững bước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Đảng ta đã khẳng định: “Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững” .


Như vậy, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về bảo đảm quyền con người là nhất quán, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng. Những thành tựu đạt được thời gian qua là những bằng chứng không thể phủ nhận những nỗ lực trong việc bảo đảm thực thi quyền con người ở Việt Nam.   

Thứ Năm, 23 tháng 12, 2021

ĐẤU TRANH LÀM RÕ ĐỐI TƯỢNG SỬ DỤNG QUÂN PHỤC QUÂN ĐỘI TRÁI PHÁP LUẬT





Lực lượng An ninh, Công an huyện Quỳnh Phụ (Thái Bình) đã kịp thời phát hiện đối tượng Trần Thị V., sinh năm 1991, trú tại xã Quỳnh Hưng, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã mặc, sử dụng quân phục của Quân đội nhân dân Việt Nam trái pháp luật. Trần Thị V. đã đặt mua quân phục trên mạng Internet rồi sử dụng và đăng ảnh lên trang facebook cá nhân. Trên mạng xã hội, Trần Thị V tự nhận quân nhân đang công tác tại Ban Chỉ huy Quân sự huyện Quỳnh Phụ.

👉👉Ngay sau khi phát hiện vụ việc, Công an huyện Quỳnh Phụ đã gọi hỏi, răn đe Trần Thị V. Qua xác minh ban đầu, mục đích đối tượng Trần Thị V. mặc, sử dụng quân phục Quân đội trái phép rồi đăng lên mạng xã hội để sống ảo, câu view, câu like, làm tăng uy tín của bản thân phục vụ cho việc bán hàng thuận lợi và có thể giao lưu, kết bạn, nói chuyện với nhiều người. Hành vi của Trần Thị V. đã vi phạm quy định về sử dụng quân trang, làm ảnh hưởng đến hình ảnh của lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, Ban Chỉ huy Quân sự huyện Quỳnh Phụ nói riêng, đồng thời gây bức xúc trong dư luận xã hội. 

📣📣Sau khi làm việc với cơ quan Công an, chị Trần Thị V. đã giao nộp toàn bộ số quân trang sử dụng trái phép. Hiện Công an huyện Quỳnh Phụ đang hoàn tất hồ sơ, xử lý vụ việc theo đúng quy định của pháp luật. Công an huyện Quỳnh Phụ đề nghị người nhân nêu cao tinh thần cảnh giác, khi phát hiện trường hợp mang, mặc, sử dụng trái phép quân phục của lực lượng vũ trang, giả danh Công an, Quân đội, hãy báo ngay với cơ quan Công an nơi gần nhất để xử lý kịp thời./.

Thứ Tư, 22 tháng 12, 2021

CẢNH GIÁC VỚI NGUỒN THÔNG TIN KHI CHIA SẺ TRÊN MẠNG XÃ HỘI

 


Thời gian gần đây, số người lây nhiễm Virus Sars- Cov-2 có dấu hiệu tăng trở lại ở khu vực phía Nam, nhất là TP Hồ Chí Minh, nhiều người dân đã lo lắng tiếp nhận thông tin về vấn đề này trên báo chí chính thống và cả trên các trang mạng xã hội. Hiện nay đang xuất hiện việc nhiều cá nhân, kể cả một bộ phận cán bộ, đảng viên đang chia sẻ, chuyển tiếp cho nhau các clip về “Cách phòng chống virus Sars-Cov-2”, “Biến chủng Sars-Cov-2 ở Ấn Độ đã xuất hiện, chia sẻ ngay cách bảo toàn sinh mạng”… Nội dung của các clip này cũng dẫn thông tin từ một vài nguồn ban đầu nghe nhầm tưởng là có cơ sở khoa học để khuyên mọi người phòng tránh lây nhiễm virus Sars-Cov-2, nhưng nếu nghe kỹ thì những thông tin ấy cũng đã có nhiều ở trên báo chí.


Điều đáng nói là các đoạn video clip đó được cắt ra, làm ra từ các trang thông tin xấu độc của các thế lực thù địch như kênh Facebook, Youtube: Vietlive. tv, “nước Mỹ trở lại”… và nhiều trang thông tin chưa rõ nguồn gốc khác với những nhân vật xướng ngôn nói xấu Đảng, nói xấu chế độ như “MC Thanh Tâm”, “MC Việt Dũng”. Các trang xấu độc này được tiếp sức ngầm từ các thế lưc thù địch đang hằng ngày, hằng giờ thông tin chống phá chế độ, bôi nhọ các lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta.


Có một số cá nhân khi chia sẻ nội dung trên còn nói rằng “nội dung tôi chia sẻ không có gì xấu độc”. Tuy nhiên, khi lan tỏa các nội dung người dân hiện nay quan tâm như tình hình dịch bệnh và cách phòng chống Sars-Cov-2 đi kèm hình ảnh nhân vật và logo hình hiệu của các kênh trên thì họ đã vô tình (hay cố ý) lan tỏa các nhận diện thương hiệu "ngược” về hình hiệu, về nhân vật “xướng ngôn” đến với người dân trong nước. Khi đã thu hút được sự quan tâm, theo dõi của người đọc thì các thế lực thù địch và phần tử xấu sẽ đưa vào những thông tin giả mạo, xấu độc, lồng ghép với các nội dung chống Đảng, Nhà nước, làm người đọc không phân biệt được những thông tin thật – giả, gây hoang mang, tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn về an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.


Thực tế, khi tìm hiểu sâu về các kênh thông tin này và các nhân vật “MC”, rất dễ phát hiện ra đã có rất nhiều nội dung thông tin chống phá chế độ đang được các đối tượng trên chia sẻ, lan tỏa. Ví dụ “MC Thanh Tâm” tên thật là Trần Hoàng Thanh Tâm - MC của Vietlive - hiện là giám đốc của Đài Truyền hình SBTN, đây là một trong những đài thường xuyên chống phá Việt Nam tại Canada, có nội dung phần lớn mang tính một chiều, cực đoan. Ngay kênh "Vietlivetv" đã từng bị Đài Truyền hình Việt Nam chỉ tên là kênh thông tin xấu độc trong bản tin 19h tối ngày 8/10/2020.


Nhận thức rõ những hậu quả do chia sẻ nguồn tin trên mạng, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần cảnh giác, không chia sẻ các thông tin từ những nguồn không có kiểm chứng, không phải là báo chí chính thống để không tiếp tay lan tỏa các thông tin xấu độc trên không gian mạng. Trước hết cán bộ, đảng viên cần tuân thủ triệt để Quy định số 37-QĐ/TW về một số điều đảng viên không được làm liên quan đến mạng internet và mạng xã hội: “Phản bác, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; không thực hiện trách nhiệm nêu gương; chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, vụ lợi; "tư duy nhiệm kỳ", đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, xa rời quần chúng” (Điều 3); “Cung cấp, để lộ, làm mất hoặc viết bài, đăng những thông tin, tài liệu bí mật của Đảng và Nhà nước hoặc những việc chưa được phép công bố; tàng trữ, tuyên truyền, tán phát hoặc xúi giục người khác tuyên truyền, tán phát thông tin, tài liệu dưới mọi hình thức để truyền bá những thông tin, quan điểm trái với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước” (Điều 4); “Viết bài hoặc cung cấp tài liệu cho người khác viết, nói, cho đăng tải tin, bài sai sự thật, không đăng tải ý kiến phản hồi, cải chính theo quy định. Sáng tác, sản xuất, tàng trữ, tán phát các tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật không lành mạnh, trái thuần phong mỹ tục Việt Nam, mang tính kích động gây ảnh hưởng xấu trong xã hội; tán phát bài viết, bài nói, phỏng vấn, hồi ký, phim, ảnh không đúng quy định” (Điều 5). Cán bộ, đảng viên phải luôn gương mẫu trong việc ứng xử trên mạng xã hội.


Cùng với chấp hành nghiêm các quy định về kỷ luật phát ngôn và còn phải thực hiện tốt quy định về cung cấp thông tin trên mạng xã hội theo Luật An ninh mạng 2018. Mỗi cán bộ, đảng viên thật sự gương mẫu quán triệt và thực hiện nghiêm bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đó là mỗi cán bộ, đảng viên phải là người “Đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa”…; đặc biệt phải tuân thủ kỷ luật phát ngôn, không sử dụng mạng xã hội để khai thác, tuyên truyền các thông tin chưa được kiểm chứng, phiến diện, một chiều ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan, đơn vị và cả cộng đồng.


THỦ TƯỚNG PHẠM MINH CHÍNH: "THẦN TỐC HƠN NỮA TRONG THỰC HIỆN CHIẾN DỊCH TIÊM CHỦNG VACCINE".

 



Văn phòng Chính phủ vừa ban hành Thông báo 347/TB-VPCP ngày 22/12/2021 kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, tại cuộc họp trực tuyến các địa phương về công tác phòng, chống dịch COVID-19.


Thông báo nêu rõ: Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ về hướng dẫn tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19” và hướng dẫn chuyên môn của Bộ Y tế (theo Quyết định 4800/QĐ-BYT ngày 12/10/2021) cơ bản phù hợp, sát tình hình và đang được thực hiện có hiệu quả. Tình hình dịch cơ bản được kiểm soát trên phạm vi toàn quốc.


Tuy nhiên, những ngày gần đây số ca mắc, chuyển nặng và tử vong vẫn diễn biến phức tạp ở một số địa phương. Nguyên nhân chủ yếu do các hoạt động xã hội trở lại bình thường, giao lưu đi lại của người dân tăng; còn tồn tại mầm bệnh trong cộng đồng; biến chủng Delta có tốc độ lây lan nhanh; nhiều người dân có tâm lý chủ quan, chấp hành chưa nghiêm quy định 5K, đặc biệt là việc không đeo khẩu trang nơi công cộng; một bộ phận người dân chưa tiêm vaccine; số ca tử vong chủ yếu ở những người cao tuổi, người có bệnh lý nền, chưa tiêm hoặc tiêm chưa đủ 2 mũi vaccine. Việc nâng cao năng lực y tế dự phòng, y tế cơ sở chưa được triển khai kịp thời ở một số nơi, dẫn tới bị động, lúng túng khi dịch bệnh diễn biến phức tạp. Một số địa phương thiếu chủ động nguồn nhân lực, dựa nhiều vào lực lượng hỗ trợ của trung ương và địa phương khác.


Dự báo thời gian tới, tình hình dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp. Biến chủng Omicron có tốc độ lây lan nhanh hơn chủng Delta, chưa có đánh giá chính thức về độc lực và khả năng kháng vaccine của biến chủng này, đồng thời không loại trừ xuất hiện các biến chủng mới.


Để thực hiện hiệu quả mục tiêu “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh”, khôi phục và phát triển kinh tế xã hội, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu:


Về tổng thể, các nguyên lý, 3 trụ cột phòng chống dịch (cách ly - xét nghiệm - điều trị) và công thức “5K + vaccine, thuốc điều trị + đề cao ý thức người dân và các biện pháp khác”… đã được đúc kết là phù hợp, khoa học, sát thực tế. Các địa phương, bộ ngành, cơ quan, đơn vị rà soát, rút kinh nghiệm, cần tiếp tục tổ chức thực hiện nghiêm túc, quyết liệt hơn nữa; không tổ chức các hoạt động tập trung đông người, nhất là vào dịp Tết Dương lịch và Tết Nguyên đán; xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm.


- Cần bảo đảm thực hiện đầy đủ các yêu cầu: (i) người dân phải được tiếp cận y tế từ sớm, từ xa, nâng cao năng lực y tế cơ sở, chủ động sẵn sàng về trang bị, nhân lực, thuốc điều trị, ô xy…; (ii) vaccine là yếu tố chiến lược, quyết định cả trước mắt và dài hạn đối với công tác phòng, chống dịch; (iii) bảo đảm dinh dưỡng và chăm sóc, động viên tinh thần cho người bệnh, kết hợp đông y và tây y trong điều trị.


- Để ngăn chặn ca lây nhiễm, tuyệt đối không lơ là, chủ quan, bám sát tình hình, sớm phát hiện các chủng mới xâm nhập vào Việt Nam; tăng cường xét nghiệm tầm soát với đối tượng, địa bàn có nguy cơ cao; đặc biệt chú ý công tác phòng, chống dịch tại các đô thị lớn, khu công nghiệp.


- Thần tốc hơn nữa trong thực hiện chiến dịch tiêm chủng vaccine, tổ chức tiêm an toàn, nhanh nhất. Chậm nhất ngày 31/12/2021 phải hoàn thành việc tiêm mũi 2 cho người từ 18 tuổi trở lên; không để sót, đặc biệt người có bệnh nền, người trên 50 tuổi; hoàn thành tiêm mũi 2 cho người từ 12 - 18 tuổi trong tháng 01/2022, mũi thứ 3 cho người từ 18 tuổi trở lên trong quý I/2022. Chủ động có kế hoạch, phương án tiêm vaccine cho trẻ em từ 5 tuổi đến 11 tuổi sau khi có ý kiến của cấp có thẩm quyền và theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới.


Bộ Y tế bảo đảm đủ vaccine cho tiêm chủng, hướng dẫn, tổ chức chiến dịch tiêm khoa học, hợp lý, hiệu quả. Các địa phương tổ chức thực hiện tiêm vaccine theo hướng dẫn của Bộ Y tế; Ban chỉ đạo phòng, chống dịch các tỉnh, thành phố bảo đảm tiến độ tiêm vaccine khi được phân bổ; xác định trách nhiệm cá nhân và tập thể khi không hoàn thành nhiệm vụ; tiến hành “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng người”, tổ chức các tổ lưu động để vận động người dân và tiến hành tiêm vaccine. Xem xét chế tài xử lý với những người không chịu tiêm vaccine (trừ người chống chỉ định tiêm). 


Hỗ trợ kịp thời thuốc điều trị cho các địa phương


Bộ Y tế bảo đảm đủ thuốc điều trị; chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương, các bệnh viện trên toàn quốc chủ động mua sắm theo quy định; phân bổ, hỗ trợ kịp thời thuốc điều trị cho các địa phương; chịu trách nhiệm kiểm định, quản lý chất lượng thuốc được đưa vào sử dụng; tổ chức mua tập trung một số loại thuốc điều trị thiết yếu và phải bảo đảm có cơ số dự phòng phù hợp cho tình huống dịch bệnh diễn biến xấu. Hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, đơn vị khẩn trương nhập khẩu, sản xuất thuốc điều trị COVID-19; thúc đẩy thử nghiệm, chuyển giao công nghệ, sản xuất vaccine, thuốc điều trị COVID-19 trong nước. 


Bộ Y tế tiếp tục chỉ đạo tăng cường tập huấn, nâng cao trình độ chuyên môn để phát hiện, xét nghiệm sàng lọc, điều trị ban đầu, điều trị sớm các trường hợp F0 tại cơ sở, tại nhà cho hệ thống y tế dự phòng, y tế cơ sở; chỉ đạo thành lập trạm xá lưu động, bảo đảm trang thiết bị y tế cần thiết, đồng thời điều động lực lượng hỗ trợ từ nơi khác đối với địa phương phát hiện nhiều ca nhiễm, dịch diễn biến phức tạp; huy động nhân viên y tế đã nghỉ hưu, hệ thống y tế tư nhân tham gia công tác chăm sóc, hỗ trợ điều trị người nhiễm COVID-19, nhất là tại cơ sở.


Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tiếp tục hoàn thiện trình Chính phủ ban hành các chế độ, chính sách về phụ cấp cho nhân viên y tế cơ sở, y tế dự phòng; nghiên cứu, xây dựng Đề án kiện toàn, nâng cao năng lực hệ thống y tế cơ sở, y tế dự phòng phù hợp với dự báo về tình hình dịch bệnh, nhu cầu chăm sóc điều trị ban đầu.


Bộ Giao thông vận tải, các bộ, cơ quan liên quan tiếp tục thực hiện kế hoạch mở lại các đường bay quốc tế bảo đảm an toàn, phù hợp tình hình và thông lệ của các nước với phương châm “không quá thận trọng nhưng cũng không quá chủ quan” theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh.


Các địa phương tiếp tục tham khảo, lấy ý kiến của doanh nghiệp, người dân về triển khai các biện pháp phòng, chống dịch hiệu quả, phù hợp và bảo đảm sản xuất kinh doanh an toàn; tiếp tục quan tâm công tác bảo đảm an sinh xã hội, đẩy mạnh tuyên truyền để người dân tự giác, tự nguyện, tích cực tham gia công tác phòng, chống dịch để bảo vệ bản thân, gia đình và cộng đồng, vì lợi ích quốc gia, dân tộc.


Bộ Tài chính, Bộ Y tế xử lý kịp thời các kiến nghị về tài chính, thuốc, vaccine, trang thiết bị y tế theo đề nghị của các tỉnh, trường hợp vượt thẩm quyền báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định./.



Thứ Ba, 21 tháng 12, 2021

VUN ĐẮP QUAN HỆ HỮU NGHỊ TRUYỀN THỐNG, HỢP TÁC TOÀN DIỆN VIỆT NAM - CAMPUCHIA

 


Nhận lời mời của Quốc vương Campuchia Norodom Sihamoni, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc thăm cấp Nhà nước tới Vương quốc Campuchia từ ngày 21 đến 22-12-2021.

 

Đây là chuyến thăm Campuchia đầu tiên của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc trên cương vị mới. Chuyến thăm nhằm triển khai đường lối đối ngoại Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện Việt Nam coi trọng việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng, đồng thời đây cũng là một trong những hoạt động đầu tiên để khởi đầu cho chuỗi các hoạt động kỷ niệm 55 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Campuchia (24-6-1967 / 24-6-2022).


Là hai quốc gia láng giềng gần gũi, Việt Nam và Campuchia có quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời. Mối quan hệ này được nhiều thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước dày công vun đắp bằng công sức, xương máu của biết bao thế hệ người Việt Nam cũng như Campuchia và là tài sản vô giá của hai dân tộc.


Ngược dòng lịch sử hơn 54 năm về trước, Việt Nam và Campuchia chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, đánh dấu trang sử mới trong quan hệ giữa hai nước. Trên nền tảng quan hệ lịch sử lâu đời và từ cuộc đấu tranh chống thực dân, việc thiết lập quan hệ ngoại giao đã tạo các điều kiện thuận lợi để nhân dân Việt Nam và Campuchia tiếp tục sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và cùng giành thắng lợi lịch sử vào mùa xuân năm 1975.


Khi tập đoàn phản động Pol Pot tiến hành chính sách diệt chủng tàn khốc ở Campuchia, đồng thời tiến hành cuộc chiến tranh đẫm máu, xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ Tây Nam của Việt Nam, đáp lại lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết Cứu nước Campuchia, của nhân dân Campuchia anh em, Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội Việt Nam đã thực hiện quyền tự vệ chính đáng của mình, đập tan các hành động xâm lược, cùng với lực lượng vũ trang, nhân dân Campuchia và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế đánh đổ chế độ diệt chủng vào ngày 7-1-1979, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia và Việt Nam, khép lại một trang sử đen tối nhất của đất nước Chùa Tháp, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do, hòa bình, trung lập và phát triển.


Sau Hiệp định Hòa bình Paris năm 1991 và cuộc tổng tuyển cử năm 1993, quan hệ Việt Nam-Campuchia chuyển sang giai đoạn phát triển mới. Với phương châm “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”, trong những năm qua, quan hệ hai nước không ngừng được củng cố. Cho dù cùng chịu nhiều tác động của đại dịch Covid-19, song quan hệ Việt Nam-Campuchia tiếp tục duy trì đà phát triển tích cực trên các lĩnh vực, từ chính trị, quốc phòng, an ninh cho đến kinh tế-thương mại-đầu tư, văn hóa-giáo dục, hợp tác đa phương. Đặc biệt, Việt Nam và Campuchia đã phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau kịp thời và hiệu quả trong công tác phòng, chống dịch Covid-19 thông qua nhiều hoạt động thiết thực, đóng góp tích cực cho nỗ lực kiểm soát dịch bệnh tại mỗi nước, thể hiện sống động tinh thần đoàn kết và truyền thống tương trợ lẫn nhau lúc khó khăn giữa hai dân tộc.


Nhìn lại chặng đường lịch sử hơn nửa thế kỷ qua, chúng ta vui mừng nhận thấy, bất chấp biết bao khó khăn, thử thách với những thăng trầm, quan hệ hữu nghị truyền thống Việt Nam-Campuchia không ngừng được vun đắp. Chúng ta có niềm tin vững chắc rằng, chuyến thăm cấp Nhà nước tới Vương quốc Campuchia của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc sẽ thành công tốt đẹp, góp phần củng cố sự tin cậy chính trị, làm sâu sắc hơn nữa hợp tác nhiều mặt giữa hai nước, đưa quan hệ “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” Việt Nam-Campuchia ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả.